-
“Biện pháp rèn luyện tính tự lập cho trẻ 5–6 tuổi” . TG: Nguyễn Thị Thúy Duy
21/05/2025I. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài, sáng kiến Lúc sinh thời Bác Hồ vỹ đại có câu “Tuổi nhỏ làm việc nhỏ, tùy theo sức của mình”. Để giúp cho trẻ lứa tuổi mầm non phát triển toàn diện nhằm chuẩn bị nền tảng vững chắc trong tương lai thì việc giáo dục cho trẻ các kỹ năng tự phục vụ là hết sức quan trọng. Điều này khuyến khích trẻ giúp đỡ mọi người bằng những việc làm vừa sức, giúp trẻ hiểu được các giá trị và hình thành tình yêu với lao động. Từ đó, trẻ học được cách tôn trọng mọi người trong những mối quan hệ xung quanh, giúp trẻ học được cách để yêu thương, để cảm thông, chia sẻ, thuận lợi thích nghi ở nhiều môi trường khác nhau, dần giúp trẻ hình thành nhân cách tốt trong cuộc sống. Nhờ vậy, trẻ trở nên tự tin, tự lập, chủ động, có ý thức và biết tự chăm sóc tốt cho bản thân mình trong mọi hoàn cảnh và trẻ có thêm cơ hội rèn luyện vận động khéo léo, làm mọi việc một cách cẩn thận, gọn gàng hơn, giúp trẻ có được sự kiên trì để thực hiện mục tiêu đã đặt ra. Khi sinh ra chúng ta được chăm sóc bởi chính đôi bàn tay dịu dàng và ấm áp của người mẹ, sự dìu dắt, nâng đỡ từ người cha. Các đấng sinh thành như: Ông bà, cha mẹ đã chỉ dạy cho chúng ta tính tự lập bằng những việc làm đầu tiên vừa sức, đơn giản và dễ làm như: Tự đánh răng, tự mặc quần áo, tự xúc cơm…Khi chúng ta dần lớn lên được mở mang tầm hiểu biết nhờ sự chỉ dạy tận tình của thầy cô, bạn bè cứ như thế thời gian dần trôi, những đứa trẻ này càng trưởng thành buộc chúng phải tự lập và đứng vững vàng trên đôi chân của chính mình. Trẻ mầm non, đặc biệt là trẻ độ tuổi 5-6 tuổi rất dễ hình thành suy nghĩ mình là trung tâm, trẻ trở nên sống ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân. Đó cũng là thực trạng tôi nhận thấy ở chính lớp mình, qua tìm hiểu thì việc này xuất phát từ những nguyên nhân sau: Một số gia đình có điều kiện nên nuông chiều trẻ quá mức; Cha mẹ trẻ quá bận rộn với công việc để lo toan cho cuộc sống nên chưa dành nhiều thời gian cho con mình, cũng không chú trọng đến việc dạy cho trẻ kỹ năng tự phục vụ; Một vài bậc cha mẹ trẻ có suy nghĩ trẻ còn nhỏ chưa biết làm gì nên cần gì phải học nhiều, dẫn đến việc cha mẹ làm thay cho trẻ. Như vậy, khiến đa số trẻ dần trở nên kém linh hoạt, chán nản khi tham gia các hoạt động, trẻ hay ỷ lại vào người khác, làm chính con của mình vụt mất cơ hội có được tính tự lập và khả năng tự phục vụ bản thân. Chính vì vậy, tôi nhận thấy việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ để rèn luyện tính tự lập cho trẻ nói chung và trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi nói riêng là vô cùng cần thiết. Trẻ ở lứa tuổi này là thích hợp nhất để dạy trẻ kỹ năng tự phục vụ, tuy rằng kỹ năng còn khá vụng về nhưng đây là lúc trẻ háo hức để tìm tòi, học tập những kỹ năng mới, từ đó giúp trẻ hình thành tính tự lập cho mình. Đề tài: “Biện pháp rèn luyện tính tự lập cho trẻ 5–6 tuổi” được tôi áp dụng vào hai năm học qua và đã được công nhân hiệu quả sư phạm và phạm vi ảnh hưởng cấp cơ sở theo Quyết định số 2023/QĐ-UBND ngày 23/6/2023 của Chủ tịch UBND huyện Đức Huệ, vị trí số thứ tự 23 vào năm học 2022-2023 và theo Quyết định số 2036/QĐ-UBND ngày 11/6/2024 của Chủ tịch UBND huyện Đức Huệ vị trí số thứ tự 34 vào năm học 2023-2024. Qua hai năm liền thực hiện đề tài tôi nhận thấy: Trẻ được tự thực hành, trải nghiệm, được tự thỏa mãn nhu cầu tự lập hơn, tôi thấy trẻ lớp mình ngày càng hứng thú tham gia vào các hoạt động cùng các bạn và cô trong lớp. Trẻ được cô giáo và cha mẹ tạo mọi điều kiện để khuyến khích khơi dậy tính tò mò, năng động, mạnh dạn, tự tin, tự lập, được rèn luyện khả năng chuẩn bị sẵn sàng học tập ở trường tiểu học hiệu quả ngày càng cao. Trẻ có thói quen lao động tự phục vụ, để rèn luyện kỹ năng tự lập, kỹ năng nhận thức, kỹ năng vận động thô, vận động tin thông qua các hoạt động trong ngày của trẻ. Trong các hoạt động trên lớp, trẻ được đóng vai trò là trung tâm được hoạt động một cách tích cực nhất, phát huy tối đa khả năng tự lập của mình. Trẻ năng động, sáng tạo, tự tìm hiểu, khám phá và giải quyết công việc một cách hứng thú, hợp lý, khách quan. Cảm xúc của trẻ phát triển tốt, trẻ yêu thiên nhiên, có kỹ năng hoạt động với đồ vật và tạo ra những đồ dùng đồ chơi mà mình yêu thích. Trẻ trở nên vui vẻ, hồn nhiên trong các hoạt động, biết giúp đỡ cô và bạn những công việc vừa sức. Xuất phát từ những lý do trên nên tôi tiếp tục áp dụng: “Biện pháp rèn luyện tính tự lập cho trẻ 5 – 6 tuổi” trong năm học 2024 - 2025 nhằm đánh giá khả năng tự phục vụ, tự lập của trẻ và tìm ra các biện pháp mới giúp trẻ hình thành được kỹ năng tự phục vụ bản thân. Trẻ sẽ tự tin - tự lập - chủ động trong sinh hoạt hàng ngày của mình. Từ đó, sẽ góp phần hình thành nhân cách cho trẻ sau này, đáp ứng được yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực hiện nay. 2. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài, sáng kiến Nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của việc giáo dục tính tự lập cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi ở trường mầm non, tạo điều kiện cho trẻ được rèn luyện tính tự lập thông qua các hoạt động học tập, vui chơi và các hoạt động sinh hoạt tự phục vụ bản thân phù hợp với khả năng của trẻ, để trẻ nhanh chóng thích nghi, hòa nhập với môi trường sống mới, sự phát triển của xã hội, giúp trẻ phát triển một cách toàn diện. Từ đó, giúp cho cả gia đình hòa thuận và hạnh phúc hơn. Từ đó, rút ra những bài học kinh nghiệm, vốn sống mới, những biện pháp chăm sóc giáo dục trẻ hiệu quả nhất. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Trẻ 5-6 tuổi đã có những đặc điểm về khả năng tự lập riêng. Vì vậy, trong quá trình giáo dục tôi chú ý đến những đặc điểm này để có những biện pháp giáo dục hiệu quả nhất định. Việc hình thành cho trẻ tính tự lập không chỉ riêng đối với trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi mà cần cho tất cả trẻ em. Tính tự lập góp phần không nhỏ cho việc hình thành nhân cách cho trẻ. Năm học 2024-2025 là năm thứ 3 tôi chọn đề tài “Biện pháp rèn luyện tính tự lập cho trẻ 5-6 tuổi” tại lớp Lá 2, Trường Mầm non Rạng Đông và nhân rộng trong các đơn vị Trường mầm non Sơn Ca huyện Đức Huệ và Trường mẫu giáo Lộc Giang huyện Đức Hòa. II. NỘI DUNG 1. Cơ sở lý luận Có câu nói rất hay về nuôi dạy trẻ: “Làm hư tinh thần bằng cách chiều chuộng quá mức; Làm hư ý chí bằng cách chiều chuộng theo mọi ý thích, và làm hư trái tim nó bằng sự lo lắng phục vụ quá đáng”. Ngày nay, hòa cùng với sự đổi mới của đất nước, nhu cầu xã hội ngày một tăng cao, nhiều bậc phụ huynh bận rộn với các hoạt động kinh tế nên rất ít thời gian để quan tâm, hướng dẫn con mình cách tự lập trong cuộc sống. Trẻ ngày nay rất dễ nhận thấy sự thông minh, hoạt bát, lém lỉnh của trẻ. Tuy nhiên có một tồn tại không thể không thừa nhận đó là trẻ còn thiếu kỹ năng sống, thiếu khả năng tự lập và hay ỷ lại vào sự giúp đỡ của người lớn, vì thế khi gặp khó khăn trẻ không tự mình tìm cách giải quyết được. Tôi đã gắn bó với trẻ từ lâu và bản thân cũng là mẹ hai đứa trẻ. Tôi rất tâm đắc với câu nói: “Đừng gây bất lợi cho con cái bạn bằng việc cho chúng một cuộc sống dễ dàng”. Biết rằng cha mẹ nào cũng thương yêu con mình, muốn dành cho con mọi điều tốt đẹp nhất nhưng hãy nhớ rằng sự bao bọc quá mức như một chiếc lồng kín nhốt một chú chim, chim không thể tự bay kiếm mồi cũng như việc khiến đứa trẻ không thích nghi được với cuộc sống xung quanh dẫn đến khả năng tự lập của trẻ rất thấp. Đó chính là những mong ước, ấp ủ của bản thân để thúc giục tôi giúp trẻ hình thành kỹ năng tự phục vụ, khả năng tự lập cho trẻ ngay ở lứa tuổi mầm non, hình thành cho trẻ một số thói quen, một nề nếp tốt để giúp trẻ có khả năng tự phục vụ bản thân, làm cơ sở cho sự hình thành nhân cách trẻ sau này. Chương trình giáo dục mầm non từng bước được sửa đổi, bổ sung giúp trẻ phát triển tốt hơn về mọi mặt. Qua nhiều năm thực hiện nhiệm vụ chăm sóc, giáo dục trẻ tôi nhận thấy việc hình thành tính tự lập cho trẻ là yếu tố đặc biệt quan trọng và vô cùng cần thiết. Vì thế, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài“Biện pháp rèn luyện tính tự lập cho trẻ 5-6 tuổi” để nghiên cứu nhằm đưa ra các giải pháp áp dụng cho trẻ giúp trẻ có được những kỹ năng sống, kỹ năng tự phục vụ, kỹ năng giao tiếp ngay từ khi trẻ ở trường mầm non. 2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu Năm học 2024-2025 tôi được phân công dạy lớp Lá 2 với sỉ số học sinh là 20 trẻ. Từ những nhận thức của bản thân về vấn đề giáo dục tính tự lập cho trẻ mẫu giáo nhất là trẻ 5-6 tuổi, tôi định hướng được nhiệm vụ trong công việc nghiên cứu đề tài này. Để gặt hái được nhiều kết quả tốt trong quá trình thực hiện nên ngay từ đầu tôi đã tiến hành khảo sát trẻ lớp mình theo những kỹ năng cần thiết để giáo dục tính tự lập cho trẻ ở lớp tôi. Bảng khảo sát vào đầu năm học 2024-2025: SỐ THỨ TỰ TỔNG SỐ TRẺ NỘI DUNG RÈN LUYỆN TÍNH TỰ LẬP SỐ LƯỢNG ĐẠT TỶ LỆ SỐ LƯỢNG CHƯA ĐẠT TỶ LỆ 1 20 Kỹ năng tự phục vụ 8 40% 12 60% 2 Kỹ năng giữ gìn vệ sinh 9 45% 11 55% 3 Kỹ năng giúp đỡ người khác 7 35% 13 65% 4 Kỹ năng bảo vệ bản thân 6 30% 14 70% 5 Kỹ năng năng động, sáng tạo, tự tìm tòi, khám phá và giải quyết vấn đề phù hợp với hoàn cảnh 6 30% 14 70% 6 Kỹ năng tự đưa ra quyết định 5 25% 15 75% Qua khảo sát đầu năm tôi nhận thấy rằng lớp tôi có những thuận lợi và khó khăn như sau: 2.1. Thuận lợi Được sự quan tâm của Ban giám hiệu về việc thường xuyên bồi dưỡng các hoạt động chuyên môn đã giúp tôi xây dựng kế hoạch giáo dục lồng ghép các hoạt động có kỹ năng tự phục vụ nhằm rèn luyện tính tự lập cho trẻ ngay từ đầu năm. Phương tiện dạy học, cơ sở vật chất đảm bảo được trang bị đầy đủ…đồng thời trẻ được học bán trú nên rất tiện trong việc rèn luyện tính tự lập cho trẻ khi trẻ ở trường. Trẻ 5-6 tuổi có đủ sức khỏe để làm những công việc tự phục vụ bản thân, cũng như có ý thức hơn về việc phục vụ bản thân của mình và trẻ cũng thích làm những công việc để giúp người lớn hay muốn đóng vai làm người lớn. Lớp mẫu giáo 5-6 tuổi được bố trí 2 giáo viên có trình độ trên chuẩn, nhiệt tình, năng động, sáng tạo, tâm huyết với nghề và luôn chu đáo trong chăm sóc, giáo dục trẻ. Đa số các trẻ đã qua lớp mẫu giáo 4-5 tuổi nên có nề nếp học tập tốt. Trẻ đi học đều, tỷ lệ chuyên cần cao nên đảm bảo quá trình dạy và học của cô và trò không bị gián đoạn. Môi trường trong và ngoài lớp học được tổ chức theo hướng “mở” giáo dục lấy trẻ làm trung tâm nhằm kích thích sự tập trung chú ý, tư duy, sáng tạo và cảm xúc tích cực của trẻ từ đó sẽ thúc đẩy trẻ tham gia các hoạt động có hiệu quả. Đề tài này đã được bản thân tôi nghiên cứu và thực hiện rất hiệu quả trong năm học 2022-2023 và 2023-2024 tại lớp Lá 2 mà tôi được phân công dạy. Do đó, giúp tôi thuận lợi hơn trong việc nghiên cứu phát triển đề tài để thực hiện hiệu quả đối với trẻ 5-6 tuổi của lớp mình trong năm học 2024-2025. 2.2. Khó khăn Trẻ lớp tôi có những em lần đầu đến trường còn nhút nhát, chưa có thói quen tự phục vụ cho bản thân. Một số trẻ luôn được gia đình cưng chiều, làm thay trẻ mọi thứ nên khả năng tự lập của trẻ không cao so với trẻ khác. Nhận thức của một số trẻ còn chậm, còn ỷ lại chưa có nề nếp, thói quen tự phục vụ trong sinh hoạt và tham gia các hoạt động tại lớp. Hiện nay, cùng với công nghệ 4.0 phát triển, trẻ dễ bị hấp dẫn vào các trò chơi trên mạng Internet, Ipad, trò chơi điện tử, …Từ đó, ảnh hưởng lớn đến việc rèn kỹ năng tự phục vụ ở trẻ. Tính linh hoạt, năng động, sáng tạo, tạo cơ hội giáo dục rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ chưa cao, hình thức giáo dục chưa phong phú còn gò bó với trẻ. Ngày nay, một số gia đình giáo dục tính tự lập cho trẻ mới chỉ đi vào giai đoạn hành vi, chưa chú trọng tới giáo dục khía cạnh nhận thức và thái độ của trẻ. Từ những thuận lợi và khó khăn nêu trên cùng với những kết quả đạt được từ đề tài năm học 2022-2023, 2023-2024. Tôi đã mạnh dạn nghiên cứu tài liệu tìm những giải pháp mới để áp dụng rèn luyện tính tự lập cho trẻ 5-6 tuổi trong năm học 2024-2025. 3. Các giải pháp 3.1. Tạo môi trường gần gũi, an toàn nhằm phát huy tính tự lập của bản thân trẻ 3.1.1. Môi trường ngoài lớp học Môi trường bên ngoài lớp là một không gian lí tưởng để dạy cho trẻ tính tự lập. Từ việc chuẩn bị môi trường ngoài lớp học sẽ khơi gợi ở trẻ tình yêu thiên nhiên, yêu lao động, tạo nên tình cảm của trẻ với thế giới tự nhiên. Từ đó, trẻ tự có ý thức bảo vệ và chăm sóc cây, không ngắt hoa, bứt lá, bẻ cành… Góc thiên nhiên được trang trí sinh động với nhiều chậu hoa được cắt, vẽ bằng các màu sắc bắt mắt và trồng nhiều hoa, cây cảnh phong phú tạo cho trẻ một không gian xanh, sạch và đẹp. Hằng tuần, mỗi một ngày cô đều có kế hoạch cho trẻ tự mình chăm sóc chậu hoa, cây xanh theo nhóm, theo tổ bằng các việc vừa sức như: Tưới cây, nhổ cỏ, cắt tỉa lá úa…qua đó giáo dục trẻ biết yêu cái đẹp, biết giữ gìn cái đẹp và mong muốn tạo ra cái đẹp. Hình ảnh góc thiên nhiên của lớp Hình ảnh trẻ chăm sóc cây Tôi còn đặt thêm một vườn rau tự quản: Dành một khu vực nhỏ để làm vườn rau của trẻ, mỗi nhóm trẻ có một luống rau riêng để tự trồng, chăm sóc và thu hoạch. Qua đó, trẻ không chỉ học kỹ năng tự lập mà còn hiểu về quá trình phát triển của cây, trân trọng thành quả lao động. Đối với các góc chơi ngoài trời, để thu hút trẻ tích cực rèn luyện kỹ năng tự phục vụ cho bản thân tôi thường xuyên sưu tầm nguyên vật liệu thiên nhiên sẵn có, làm nhiều đồ dùng đồ chơi sáng tạo, nhiều màu sắc đẹp mắt và các hình dáng ngộ nghĩnh, đáng yêu để cho trẻ có thể thực hành và phát triển tư duy, rèn luyện kỹ năng tự phục vụ cho trẻ. Tất cả các đồ dùng, trò chơi đều ở trạng thái mở, giúp trẻ dễ dàng lấy và sử dụng. Hình ảnh trẻ tập phơi quần áo Ví dụ: Tôi rèn cho trẻ kỹ năng móc quần áo để phơi: Bằng việc tận dụng quần áo mà các bạn không mặc nữa tặng cho lớp, tôi hướng dẫn trẻ sử dụng móc nhỏ vừa tay để tập móc quần áo, sử dụng cho việc luyện tập móc quần áo lên dây phơi. Ở góc khám phá khoa học: Tôi chuẩn bị rất nhiều các vật liệu thiên nhiên như lá cây, đá, cát, nước... để trẻ tự do tìm hiểu và thử nghiệm. Trong quá trình trẻ hoạt động, tôi khuyến khích trẻ tự đặt câu hỏi cho trẻ suy nghĩ và thử nghiệm để tìm ra câu trả lời. Ví dụ: Thí nghiệm thả vật nặng nhẹ vào nước để xem vật nào chìm, vật nào nổi. Hoạt động bảo vệ môi trường: Ở góc sân tôi bố trí nơi để dụng cụ như sọt rác, đồ hốt rác, cây gắp rác, chổi nhỏ, cho trẻ dễ tìm để tham gia lao động cùng cô và các bạn. Tôi tổ chức ngày "Cùng nhau dọn dẹp khu vui chơi" hàng tháng để trẻ có ý thức giữ gìn vệ sinh chung. Khuyến khích trẻ phân loại rác tái chế và sử dụng nguyên liệu tái chế để làm đồ chơi hoặc đồ trang trí. Sau giờ lao động dạy trẻ biết tự rửa tay thật sạch để vào lớp học. Giáo dục trẻ tự có ý thức bảo vệ, giữ gìn đồ dùng, đồ chơi trong sân trường cũng như giữ gìn vệ sinh trong sân chơi. … Ví dụ: Trẻ tham gia nhặt lá vàng, quét rác trên sân cùng cô và các bạn để tạo môi trường sạch đẹp và tận dụng những lá cây để làm đồ dùng đồ chơi cho các giờ học tạo hình hay làm nguyên liệu cho góc nghệ thuật. Hình ảnh trẻ tham gia lao động Hình ảnh trẻ sử dụng lá cây để tạo hình Ngoài sân trường có bố trí các vòi nước và để xà phòng, phía trên có dán các bước rửa tay để sau giờ hoạt động ngoài trời, giờ lao động trong sân trường trẻ sẽ tự giác biết đi rửa tay đúng cách bằng xà phòng trước khi vào lớp tham gia các hoạt động khác. Kệ để dép tôi đặt ngay phía trước cửa lớp cho trẻ dễ cất và lấy sử dụng một cách dễ dàng và thuận tiện nhất. Khu vực tủ cá nhân tôi dán tên và hình ảnh trên cánh tủ để trẻ cất đồ dùng cá nhân đúng quy định và đúng ngăn tủ của mình. Ngoài ra tôi còn hướng dẫn để trẻ biết cất bình nước đúng nơi quy định. 3.1.2. Môi trường trong lớp học Giải pháp không thể thiếu là tạo môi trường trong lớp học phù hợp, thuận lợi, thân thiện để dạy trẻ, đó là yếu tố quan trọng trong quá trình hình thành và rèn luyện khả năng tự phục vụ cho trẻ. Góc kỹ năng: Là góc thực hành cuộc sống, là nơi trẻ có điều kiện được trải nghiệm thực tế, khuyến khích, khơi dậy tính tò mò, trí tưởng tượng, năng động, mạnh dạn, tự tin. Ở góc này, từ những mảng tường trắng, tôi đã tìm tòi và tận dụng để làm một góc mở cho trẻ rèn luyện kỹ năng tự phục vụ như: Kỹ năng tết tóc, buộc dây giầy, kỹ năng rót nước, kỹ năng sâu hạt, kỹ năng tự đánh răng…Trẻ được vui chơi ở góc theo cách thức vừa học vừa chơi. Trẻ có thêm nhiều lựa chọn và cách thực hiện các hoạt động, các bài tập theo hứng thú của mình. Đồng thời giúp trẻ có thể cùng hợp tác, chia sẻ kinh nghiệm với bạn. Hình ảnh trẻ thao tác lên đồ dùng Hình ảnh trẻ thao tác trên hộp kỹ năng trên tường Ví dụ: Ở góc chơi phân vai, với góc thợ may tôi trưng bày những bộ đồ đẹp cho trẻ thực hiện kỹ năng tự cài cởi khuy áo, kéo khóa, cài nón bảo hiểm, thắt dây giầy…để thu hút sự hứng thú, ham học hỏi, tính tò mò của trẻ. Tôi còn bố trí ở góc thêm nhiều loại đồ dùng, đồ chơi đẹp mắt phù hợp với tính năng sử dụng cho trẻ hoạt động như: Váy được cắt bằng vải nỉ có khóa, áo có khuy… Góc thử thách kỹ năng tự phục vụ: Tạo các trò chơi giả vờ tưởng tượng như “Nhà hàng tí hon” để trẻ tự chuẩn bị bàn ăn, tự phục vụ đồ ăn cho mình và các bạn. Sử dụng bộ đồ dùng đồ chơi mô phỏng các công việc hàng ngày như: Gấp quần áo, xếp nệm gối để trẻ thực hành kỹ năng tự phục vụ. Thẻ nhiệm vụ theo nhóm: Phân công nhiệm vụ hàng tuần cho từng nhóm trẻ như: “Nhóm gọn gàng” chịu trách nhiệm sắp xếp kệ đồ chơi, “Nhóm sạch sẽ” lau dọn bàn ghế. Các nhóm sẽ thay phiên nhau thực hiện, rèn luyện tinh thần trách nhiệm và kỹ năng làm việc nhóm ở trẻ. Góc bán hàng có bán nhiều giày, dép cho trẻ đến mua và tự mang vào thử Hình ảnh trẻ chơi góc phân vai mua hàng 3.2. Tổ chức rèn luyện tính tự lập thông qua các hoạt động trong ngày 3.2.1. Tổ chức rèn luyện tính tự lập thông qua hoạt động có chủ đích Để giáo dục tính tự lập cho trẻ trong các hoạt động cô giáo là người dẫn dắt trẻ trong hoạt động. Trong các hoạt động học cô luôn khuyến khích động viên trẻ mạnh dạn, tự tin tham gia vào các hoạt động, biết hoạt động độc lập và hoàn thành sản phẩm bằng chính khả năng của mình. Từ đó, trẻ hiểu được vai trò nhiệm vụ của mình. Cô khuyến khích động viên trẻ mạnh dạn, tự tin tham gia vào các hoạt động. Trẻ biết hoạt động độc lập và hoàn thành sản phẩm bằng chính khả năng của mình. Trẻ hứng thú và tích cực tham gia vào các hoạt động, vận động nhanh nhẹn, hoạt bát hơn, rèn luyện sự khéo léo của đôi bàn tay. Phát triển năng lực hoạt động trí tuệ của trẻ, trẻ sẽ chủ động trong các hoạt động mà không ỷ lại vào người khác. Từng tổ xếp bàn ghế, đi lấy đồ dùng của mình như: Bút chì, bút màu, sách…để trên bàn. Hình ảnh trẻ tự lấy đồ dùng học tập Hình ảnh trẻ lấy đồ dùng về chỗ ngồi Trong giờ hoạt động làm quen với toán tôi chuẩn bị rổ đồ dùng và bảng con cho mỗi trẻ nhưng tôi đặt chung vào một bàn, sau đó cho mỗi trẻ sẽ lên lấy cho mình một rổ và một bảng về chỗ của mình để học. Tôi giáo dục trẻ không chen lấn với bạn, chỉ lấy 1 rổ đồ dùng và không lựa chọn quá lâu, đồng thời có thể giúp đỡ các bạn khác nếu bạn không biết chọn lấy. Sau khi học xong tôi cũng cho trẻ cất đồ dùng về đúng vị trí ban đầu đã lấy. Hay trong giờ học tạo hình khi cần đến hộp màu, tôi thường nhờ trẻ chuẩn bị bàn học và hộp màu cho các bạn trong lớp. Trong giờ học khám phá khoa học cho trẻ, làm thí nghiệm rất có ưu thế trong việc phát triển tính tự lập của trẻ. Ví dụ: Hoạt động khám phá sự hòa tan của đường và muối trong nước. Trẻ được tự lấy đồ dùng, trẻ được tự làm thí nghiệm, được tự tay lấy đường, muối, khuấy đều, xúc để nếm được tự bê nước lên để vào bình. Hình ảnh trẻ làm thí nghiệm và quan sát kết quả thí nghiệm Ví dụ: Trong giờ tạo hình trẻ biết tự chọn lấy nguyên liệu để tạo ra sản phẩm khi làm xong sản phẩm trẻ tự mang lên treo sản phẩm của mình và biết cất đồ dùng vào vị trí ban đầu. Hình ảnh trẻ treo sản phẩm để nhận xét Hình ảnh trẻ cất đồ dùng gọn gàng Sau giờ học tôi tổ chức một số trò chơi rèn luyện tính tự lập như: + Trò chơi liên quan đến sắp xếp đồ vật: Thi xem ai sắp xếp giày dép lên kệ gọn nhất, thi xếp và phân nhóm đồ chơi… Qua các trò chơi rèn luyện tính tự lập như vậy, tôi thấy trẻ vô cùng hứng thú, trẻ vừa được học vừa được chơi. Từ các hoạt động hình thành cho trẻ kỹ năng tự lập cao, trẻ biết lấy và cất đồ dùng, đồ chơi đúng nơi quy định, giữ gìn, sắp xếp ngăn nắp gọn gàng. Biết làm những việc tự chăm sóc, phục vụ bản thân như: Tự lấy nước uống, tự lấy ghế, tự xúc cơm ăn… Ở hoạt động hợp tác: Tổ chức các trò chơi hợp tác như “Xây công trình từ khối gỗ” hoặc “Vẽ tranh nhóm” yêu cầu trẻ phải thảo luận, chia sẻ ý kiến và cùng nhau hoàn thành nhiệm vụ. Trẻ sắp xếp góc học tập và đồ chơi theo nguyên tắc “Tự bàn –tự chọn - tự làm - tự học”. Tôi thường xuyên kể các câu chuyện về nhân vật có tính tự lập, tự giải quyết vấn đề và vượt qua khó khăn. Sau đó, thảo luận cùng trẻ về cách nhân vật đó và cho trẻ liên hệ với hành động của bản thân trong thực tế. Ví dụ: Tôi kể cho tre nghe câu chuyện “Ba chú heo con”. Thông qua đó tôi giáo dục tính tự lập, không trong mong sự giúp đỡ từ người khác mà phải dựa vào chính khả năng của mình rồi sẽ thành công. 3.2.2. Rèn luyện tính tự lập thông qua hoạt động chơi trong lớp Hoạt động vui chơi là hoạt động để rèn luyện các chức năng tâm sinh lý, phát triển các mặt thể chất và tinh thần, để học hỏi để phát triển nhân cách một cách toàn diện. Trong trò chơi trẻ được thể hiện khả năng tự lập của mình, trẻ chơi một cách vui vẻ, hăng say, thích thú. Thiết kế góc chơi với các trò chơi “Bé tự lập” của trẻ. Hình ảnh trẻ vào vai các thành viên gia đình để nấu ăn và trẻ cất dọn đồ chơi Ví dụ: Góc gia đình có nhiệm vụ chuẩn bị bữa ăn với danh sách công việc cụ thể như: Rửa rau, bày bàn, dọn dẹp sau khi ăn… Góc xây dựng yêu cầu trẻ tự lập kế hoạch xây dựng một công trình từ nguyên vật liệu tái chế, bao gồm việc phân chia công việc cho các thành viên và quản lý tiếng ồn cũng như thời gian hoàn thành của nhóm. Ở góc bác sĩ trẻ biết tự lấy áo bác sĩ, nón, lấy ống nghe khám bệnh cho bệnh nhân, lấy kim tiêm tiêm thuốc cho bệnh nhân, biết lấy giấy viết ghi đơn thuốc lấy thuốc cho bệnh nhân. Góc cảm xúc và kỹ năng giao tiếp: Tạo góc cảm xúc với bảng hoặc thẻ cảm xúc để trẻ học cách nhận biết và diễn tả cảm xúc của mình. Sử dụng búp bê, con rối để trẻ thực hành tình huống và giải quyết mâu thuẫn với bạn. Ví dụ: Trẻ đi lấy đồ dùng để chơi, khi chơi xong trẻ cắt đồ chơi gọn gàng vào đúng nơi quy định, trẻ biết tự thảo luận, biết tự phân công công việc. Sử dụng hệ thống điểm thưởng đổi hoạt động yêu thích: + Khi hoàn thành tốt nhiệm vụ hoặc thể hiện tính tự lập cao, trẻ sẽ được nhận điểm thưởng. + Điểm này có thể dùng để đổi quyền chọn trò chơi hoặc góc chơi yêu thích trong tuần. Trò chơi nhập vai mở rộng theo tình huống thực tế: Ví dụ: Góc “Bệnh viện” không chỉ có bác sĩ và y tá mà còn có thêm vai trò quản lý bệnh viện, người nhà bệnh nhân... Trẻ sẽ học cách tự tổ chức công việc, giải quyết tình huống như khi quá đông bệnh nhân đến khám hoặc bị thiếu thuốc bán. 3.2.3. Tổ chức rèn luyện tính tự lập thông qua hoạt động vui chơi ngoài trời Xây dựng môi trường vui chơi đủ những điều kiện cần thiết về vật chất cho trẻ phát huy ý tưởng chơi của mình. Đồ dùng, đồ chơi phù hợp với chủ đề chơi vì sự trải nghiệm của trẻ luôn luôn khác biệt nhau. Hình ảnh góc khám phá và trẻ tham gia khám phá theo ý thích của trẻ Tôi thiết kế trò chơi khám phá và giải quyết vấn đề cho trẻ. Tôi sắp xếp các góc “mở” để trẻ tham gia hoạt động theo ý, trang bị cho trẻ đầy đủ các nguyên vật liệu để trẻ sáng tạo. Từ đó, trẻ tìm tòi được nhiều ý tưởng giúp phát triển tính tự lập, sáng tạo qua hoạt động chơi ngoài trời đạt kết quả tốt hơn. Ví dụ: Tổ chức các trò chơi săn tìm kho báu hoặc vượt chướng ngại vật yêu cầu trẻ tự suy nghĩ cách giải quyết vấn đề tìm đồ vật bị giấu theo bản đồ, vượt qua chướng ngại bằng cách hợp tác với các bạn. Tôi khuyến khích trẻ thảo luận nhóm để đưa ra việc chung cần làm. Ví dụ: Hoạt động “Nhà thám hiểm nhí”: Cho trẻ tự chuẩn bị balo với đồ dùng cần thiết cho buổi khám phá thiên nhiên như: Nón đội, nước uống, kính lúp, quyển sổ nhỏ...Trẻ sẽ tự chịu trách nhiệm về đồ dùng của mình và học cách chuẩn bị chu đáo cho các hoạt động ngoài trời. Tôi tổ chức cho trẻ chơi với các đồ chơi ngoài trời: “Cầu tuột”, “Xích đu”…thông qua các trò chơi trẻ biết cách chơi như thế nào? Phải làm sao khi có nhiều bạn cùng muốn tham gia cùng một trò chơi? Từ đó, trẻ biết rủ bạn cùng chơi, biết nhường nhịn, xếp hàng để đến lượt mình chơi, không tranh giành nhau. Thông qua các trò chơi này dần dần trẻ càng thân thiện với nhau nhiều hơn, nâng cao ý thức tốt hơn. 3.2.4. Rèn luyện tính tự lập cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi Giáo dục tính tự lập cho trẻ thông qua chế độ sinh hoạt hàng ngày ở trường mầm non là một trong những phương tiện hữu hiệu nhất vì nó tạo thêm cho trẻ nhiều cơ hội được làm được thực hành, luyện tập và trải nghiệm trong các hoạt động nhằm giúp trẻ lĩnh hội kiến thức, rèn luyện kĩ năng, hình thành ý thức, thái độ trong thực hiện các hoạt động hàng ngày. Từ đó, hình thành, phát triển tính tự lập cho trẻ dễ dàng hơn. * Giờ đón trẻ hoặc trả trẻ: Phần nhiều trẻ ở lứa tuổi 5-6 tuổi tính tự lập đã phát triển vì thế trẻ thường thích tự làm mọi việc. Tuy vậy, các thao tác còn khá vụng về do cha mẹ, người lớn thường làm giúp trẻ. Vì vậy, người lớn cần tạo điều kiện để trẻ hoạt động một cách tự lập tức là tạo cho trẻ niềm tin để trẻ có thể thực hiện. Nếu trẻ làm sai thì người lớn chỉ trẻ sửa lại, có như vậy trẻ mới được trải nghiệm công việc của mình làm nó khó và dễ như thế nào. Ví dụ: Lên lịch kế hoạch tự phục vụ: Sử dụng hình ảnh minh họa cho các công việc hàng ngày như: Cất đồ dùng, tự chuẩn bị giường ngủ, tự lấy và dọn bữa ăn...Trẻ sẽ tự đánh dấu sau khi hoàn thành, giúp trẻ có ý thức tự giác và kỷ luật hơn trong sinh hoạt hàng ngày. Hình trẻ tự mang giày dép Hình ảnh trẻ tự mang cặp Giờ trả trẻ, tôi hướng dẫn trẻ tự mang giày dép, lấy cặp mang vào, sau một vài lần cô hướng dẫn, nhắc nhở và ngày nào trẻ cũng được thực hiện các công việc đó nên việc trẻ cất và lấy đồ dùng sẽ rất thành thạo và không cần đến sự giúp đỡ của người lớn nữa. * Giờ vệ sinh, ăn: Trẻ biết rửa tay sạch sẽ trước khi vào bữa ăn, chỉ ăn uống tại bàn ăn, biết cách sử dụng những đồ dùng, dụng cụ trong bữa ăn, uống đúng cách, biết tự mang thức ăn, mời mọi người trước khi ăn, ăn uống gọn gàng, sạch sẽ không làm rơi, nhai nhỏ nhẹ không gây tiếng ồn, ngậm miệng lại khi nhai thức ăn, ăn hết phần ăn của mình. Sau khi ăn xong trẻ biết xếp chén, muỗng đúng nơi quy định và xếp ghế lại gọn gàng. Hình ảnh trẻ tự chuẩn bị cho giờ ăn Hình ảnh trẻ trật tự cất tô, ca sau khi ăn xong Tạo góc tự phục vụ với công cụ phù hợp: Trong lớp học có góc tự phục vụ với các đồ dùng phù hợp chiều cao và thể lực của trẻ như: Khăn lau bàn, chổi quét nhà nhỏ, thùng rác phân loại...Trẻ sẽ tự chịu trách nhiệm giữ gìn vệ sinh khu vực của mình, phát triển ở trẻ ý thức bảo vệ môi trường và tính tự lập. Ví dụ: Giờ ăn tôi giáo dục tính tự lập: Cho trẻ tự xếp ghế, tự xúc ăn, tự trải khăn trải bàn, tự chuẩn bị hoa để bàn…theo sự phân công luân phiên giữa các bạn trong tổ với nhau. * Giờ vệ sinh cá nhân, ngủ: Giáo dục tính tự lập trong việc giữ gìn vệ sinh cơ thể sạch sẽ chính là việc giúp trẻ luôn có thể lực khỏe mạnh, phòng chống lại một số loại bệnh tật. Tuy nhiên muốn trẻ luôn giữ gìn cơ thể sạch sẽ cần phải giúp cho trẻ có ý thức được tầm quan trọng của việc giữ gìn cơ thể sạch sẽ, rèn luyện ý thức tự giác cho trẻ trong hoạt động vệ sinh. Giờ thay đồ tôi phân chia khu vực nam, nữ thành hai phòng khác nhau, trẻ sẽ tự lấy cặp, thay quần áo, xếp quần áo bỏ vào cặp sau đó cất cặp vào tủ đồ dùng cá nhân của mình ngay ngắn, đóng tủ nhẹ nhàng theo đúng ký hiệu riêng. Hình ảnh trẻ biết tự chải tóc Hình ảnh trẻ giúp bạn tết tóc Đến lúc chải tóc cho bé gái, lúc đầu cô chải tóc và hướng dẫn cho trẻ rồi tập cho trẻ tự biết chải tóc, buộc tóc gọn gàng dưới sự giám sát và hướng dẫn của cô. Sau đó, cô hướng dẫn cho trẻ cột các kiểu tóc từ đơn giản đến khó hơn như cột cao, rồi tết bím tóc phía sau. Cô hướng dẫn bạn này làm cho bạn kia, trẻ vừa tự phục vụ cho mình, vừa giúp được bạn. Tôi còn quay clip những bé có tính tự lập cao mở cho trẻ, phụ huynh xem nhằm nêu gương thu hút phụ huynh vào các giờ đón trả trẻ. Hình ảnh trẻ xếp niệm gối ngay ngắn Hình ảnh trẻ tự trải niệm gối Chuẩn bị cho giờ đi ngủ tập cho trẻ chuẩn bị nệm, gối để ngủ. Trẻ biết tự lấy gối, nệm của mình sắp xếp vị trí gối nằm ở đâu. Và khi ngủ dậy tập cho trẻ thói quen xếp và cất nệm gối vào nơi quy định. Nếu trẻ còn chưa biết cô sẽ hướng dẫn trẻ cách thực hiện. Ví dụ: Trò chơi “Ai nhanh hơn”: Tôi tổ chức thi đua xem ai cất đồ nhanh gọn và đúng chỗ nhất hoặc đội nào dọn vệ sinh chỗ của mình sạch sẽ hơn. Trẻ sẽ hào hứng hơn khi thực hiện các việc tập thể, đồng thời rèn luyện sự ngăn nắp, gọn gàng. 3.2.5. Rèn luyện tính tự lập cho trẻ thông qua việc ứng dụng công nghệ thông tin Trẻ từ khi sinh ra đã có tính tự lập. Do đó, để giúp trẻ phát triển tính tự lập, giúp trẻ tự giải quyết được các nhu cầu, tự giải quyết được vấn đề các mối quan hệ trong cuộc sống, giúp trẻ có năng lực tự chủ và tự học là chủ đạo để hình thành và phát triển các năng lực khác của trẻ. Ngày nay khoa học công nghệ phát triển giúp cho việc dạy và học được nhiều hiệu quả hơn. Trẻ mẫu giáo ngày nay đa phần đã biết sử dụng điện thoại thông minh với vài thao tác đơn giản như: Xem phim, ảnh, chụp ảnh, quay video…Nắm bắt được đặc điểm này, tôi quyết định đưa công nghệ thông tin vào các hoạt động học và chơi giúp trẻ được trực tiếp thao tác đáp ứng nhu cầu của trẻ, nhất là áp dụng trong hoạt động rèn luyện tính tự lập cho trẻ. Hình ảnh trẻ xem clip dạy kỹ năng Hình ảnh gửi clip của trẻ lên zalo lớp Ví dụ: Tôi cho trẻ xem các video hướng dẫn các kỹ năng tự phục vụ, cách giải quyết tình huống thường gặp, nói với trẻ lợi ích của việc tự lập, giúp trẻ sớm hình thành ý thức tự lập. Để giúp trẻ biết cách sử dụng máy tính và điện thoại thông minh để phục vụ cho hoạt động tìm hiểu một số hoạt động tự phục vụ bản thân, giải quyết các khó khăn trong cuộc sống tôi hướng dẫn trẻ cách sử dụng giọng nói để tìm như: Muốn tìm cách hướng dẫn cột giây giày bằng nhiều cách, hướng dẫn thắt nơ, tết tóc… Ngoài ra trên tivi trang bị ở lớp, tôi tạo ra tập tin làm thư viện của lớp, trong tập tin có lưu lại các video hướng dẫn các kỹ năng đi vệ sinh, kỹ năng tự mặc quần áo, tự trang trí bàn ăn…và hướng dẫn trẻ cách vào thư mục mở xem, khuyến khích trẻ đã biết chỉ cho trẻ không biết cách mở, giúp trẻ hình thành khả năng hướng dẫn, học tập lẫn nhau. Ngoài ra, để tăng hứng thú cho trẻ trong việc rèn tính tự lập từ công nghệ thông tin tôi còn tổ chức quay phim, quay lại các hoạt động tự phục vụ của chính trẻ ở lớp đưa vào thư viện cho trẻ xem giúp trẻ thích thú hơn và tích cực tham gia rèn tính tự lập của bản thân. Tôi còn ứng dụng công nghệ để gửi bài, gửi video ngắn về các hoạt động tự lập, đồng thơi tôi cũng tuyên truyền để phụ huynh hỗ trợ hướng dẫn trẻ thêm ở nhà nhằm thực hiện tốt công tác phối hợp giữa phụ huynh và nhà trường trong rèn luyện tính tự lập cho trẻ. Tổ chức thêm các trò chơi trên các phần mềm cho trẻ hứng thú khi tham gia hoạt động. 3.3. Dạy những kỹ năng cần thiết để rèn luyện tính tự lập, phát huy tính tự lập để trẻ có thể bảo vệ bản thân qua các tình huống 3.3.1. Kỹ năng tự phục vụ bản thân Rèn luyện kỹ năng tự phục vụ bản thân là kỹ năng vô cùng cần thiết đối với trẻ, giúp trẻ tự nhận biết là mình muốn có được kết quả nào và làm gì để có được kết quả này. Tôi thường xuyên cho trẻ thực hiện những công việc vừa sức mình để phục vụ cho bản thân: Rửa sạch tay và lau khô trước khi vào bàn ăn, trẻ cùng tổ chức bữa ăn với cô, trẻ tự xếp ghế vào bàn ăn…dần dần hình thành cho trẻ hành vi tốt trong ăn uống, biết tự chuẩn bị dọn bàn ăn phục vụ cho bản thân trẻ. Tôi đã dạy trẻ cách sắp xếp đồ đạc như: Quần áo sau khi thay gọn gàng, mũ, dép vào đúng nơi quy định và khi cần sẽ tự lấy ra để sử dụng. Hình ảnh trẻ chuẩn bị bàn ăn Hình trẻ xếp quần áo gọn gàng Ví dụ: Đến giờ ngủ trưa tôi cho trẻ tự thay quần áo, tự lấy và xếp niệm gối vào chỗ của mình. Sau khi ngủ dậy trẻ tự gấp và cất gối niệm, rửa mặt, chải tóc. Tôi hướng dẫn trẻ thực hiện lần đầu tiên rồi từ đó cho trẻ thực hiện. 3.3.2. Kỹ năng giữ gìn vệ sinh Việc có thể rèn tính tự lập cho trẻ đó là kỹ năng tự vệ sinh. Quá trình này giúp trẻ hình thành thói quen chăm sóc, làm sạch cơ thể từ đó khuyến khích trẻ trở nên độc lập hơn. Cô giáo hướng dẫn trẻ thực hiện những việc đơn giản như đánh răng, tắm rửa, làm sạch đồ chơi và sắp xếp đồ dùng cá nhân giúp trẻ có thêm tự tin và cảm thấy hạnh phúc khi tự phục vụ chính mình. Hình ảnh trẻ tự đánh răng, rửa mặt, rửa tay và lau khô Ngay trong khi trẻ thực hiện đánh răng, rửa mặt, rửa tay tôi luôn bố trí sắp xếp các đồ dùng vệ sinh như bàn chảy, khăn mặt, gọn gàng, ngăn nắp cho trẻ dễ lấy sử dụng. Tôi rèn cho trẻ thói quen thường xuyên rửa tay để đảm bảo vệ sinh, ghi nhớ việc rửa tay: Trước khi cầm đồ ăn vặt và trước các bữa ăn, sau khi chơi, đi vệ sinh, chơi cùng động vật, vức rác, khi nhảy mũi… Thói quen rửa mặt và lau khô mặt bằng khăn: Khi mặt bẩn, sau khi ra ngoài về, ngủ dậy… dạy trẻ cách rửa tay bằng xà phòng và lau khô tay khô để giữ gìn vệ sinh. 3.3.3. Kỹ năng giúp đỡ người khác Chính những việc làm từ người lớn thường ngày sẽ được trẻ chú ý ghi nhớ thực hiện lại. Ngoài việc nâng cao tính tự lập cho trẻ, cần tạo cho trẻ có được tinh thần tập thể, biết quan tâm giúp đỡ bạn và những người xung quanh. Ví dụ: Hỗ trợ bạn trong một số hoạt động, giúp bạn dọn đồ chơi, cùng với bạn hoàn thành nhiệm vụ. Hình ảnh trẻ hỏi ý trước khi chơi và trẻ đoàn kết với các bạn trong nhóm để hoàn thành nhiệm vụ trò chơi Tôi luôn dành sự khen ngợi, khuyến khích trẻ để trẻ phát huy những kỹ năng tốt này. Đồng thời cũng tạo mọi điều kiện để trẻ thực hành những kỹ năng sống qua những trải nghiệm, từ đó giúp trẻ thích ứng nhanh với môi trường xung quanh, rèn luyện sự nhanh nhạy, củng cố tư duy, thúc đẩy ý thức tự giác và hình thành tinh thần tập thể. 3.3.4. Kỹ năng bảo vệ bản thân qua các tình huống Trong xã hội hiện đại như hiện nay mang đến cho cuộc sống của trẻ nhiều tiện ích, sự thoải mái, tiện lợi nhưng cũng tiềm ẩn không ít mối nguy hiểm đối với trẻ. Điều này đòi hỏi trẻ phải có những kỹ năng biết bảo vệ chính bản thân mình trước những mối nguy hiểm. Một trong những kỹ năng cần hình thành đó là kỹ năng tự bảo vệ bản thân giúp trẻ có khả năng biết từ chối và xử lý những tình huống khi thấy không an toàn. Vì vậy, tôi đã đặt ra một số tình huống khác nhau để trẻ tự giải quyết vấn đề. Ở lớp tôi thường xuyên tạo tình huống dạy trẻ kỹ năng tự bảo vệ bản thân để ứng phó được các nguy hiểm trong cuộc sống. Khi trẻ đã có tính tự lập tốt thì giúp trẻ có khả năng bảo vệ bản thân mình tốt hơn. Từ các tình huống đó trẻ phân biệt được việc nào nên làm và việc nào không nên làm. Ví dụ: Tôi cho trẻ xem video về cách xử lý khi xảy ra sự cố cháy sau đó tôi cho trẻ đóng vai, diễn lại và cho tất cả trẻ lên để xử lý tình huống. Hình ảnh trẻ diễn lại tình huống cách xử lý thoát khỏi đám cháy Ví dụ: Tôi cho trẻ xem về một đoạn video về tình huống “Một bạn nhỏ tự ý bưng phích nước nóng và bị bỏng”, sau đó cho trẻ nói lên cách xử lí và trẻ liên hệ với bản thân. Từ những tình huống tôi tạo ra trẻ sẽ có ý thức phân biệt được đâu là đồ vật an toàn và đâu là đồ vật không an toàn để bảo vệ bản thân không rơi vào một số tình huống gây nguy hiểm. Hình ảnh phụ huynh đóng vào vai người lạ dẫn trẻ đi, các bạn chạy vào gọi cô Ví dụ: Tôi kể cho trẻ nghe câu chuyện: Hôm nay, bạn M được mẹ hứa đón về sớm đi siêu thị, nhưng ở nhà mẹ có khách nên chưa đến đón được bạn M như đã hứa, M chờ mãi mà không thấy mẹ. Bạn M xin ra xích du chờ mẹ, bỗng có một người phụ nữ đến gần cho Mkẹo và nói “Hôm nay, mẹ bận không đón con được” thấy lạ bạn M chạy vội vào lớp nhưng bị người phụ nữ kia nắm lấy áo, nên bạn M đã kêu lên thật to “Cứu con với! Cứu con với!” nghe tiếng kêu cứu cô giáo và chú bảo vệ chạy tới người phụ nữ ấy bỏ chạy. Qua câu chuyện tôi rèn cho trẻ không được đi theo người lạ dù người lạ có cho bất cứ thứ gì. Sau đó, tôi cho trẻ đóng vai các nhân vật trong câu chuyện cô vừa kể để trẻ khắc sâu hơn kỹ năng bảo vệ bản thân. Thông qua các tình huống không những trẻ lớp tôi phát huy tính tích cực, tính tự lập cho trẻ mà trẻ còn có kỹ năng trong việc tiếp xúc với người lạ, khi tiếp xúc với người lạ, tôi dạy trẻ luôn giữ một khoảng cách nhất định với họ. Dạy trẻ không dễ dàng tin lời hay nghe theo lời dụ dỗ của người lạ khi không biết họ là ai. Tôi nhắc nhỡ trẻ không đi theo người lạ nếu họ nhờ trẻ chỉ đường giúp, hoặc dụ dỗ trẻ đi theo để mua kẹo bánh và đồ chơi. Tôi dạy trẻ cần nhớ những thông tin về số điện thoại của cha mẹ, người thân hay địa chỉ nhà để khi lỡ trẻ đi lạc và cần người khác giúp đỡ. Ngoài ra, cũng nên cho trẻ biết rằng cha mẹ sẽ không nhờ ai đó đến đón con mà không nói trước hay không liên hệ cô giáo trước. Vì thế, nếu ai đó đến làm quen và gọi đúng tên con, nói đúng tên ba mẹ con thì con cũng không được đi theo họ. Tôi thường xuyên kể những câu chuyện có nhiều tình huống mà các bạn gặp phải như đi chơi với người lạ, lạc đường để khi các con gặp những tình huống đó giáo dục trẻ không được nghe lời người lạ, không đi theo họ với bất kỳ lý do gì. Bên cạnh các tình huống đó tôi còn dạy trẻ biết nói “không” với quà bánh hay bất cứ thứ gì từ người lạ cho. 3.3.5. Dạy trẻ lao động tự phục vụ Qua hoạt động lao động tự phục vụ trẻ sẽ không dựa dẫm vào người khác. Trẻ sẽ làm một cách tự tin, điều này thể hiện qua việc trẻ thấy rằng mình có thể tự làm được những công việc vừa sức với mình. Từ đó, trẻ trở nên tự tin hơn nhiều trong các công việc, trẻ sẽ có ý thức vượt qua mọi khó khăn một cách nhanh nhất và đạt kết quả tốt nhất mà không cần đến sự giúp đỡ của người khác. Vào đầu năm học mới, tôi xây dựng nội quy lớp học. Tôi và trẻ cùng thỏa thuận về những công việc và quy định hằng ngày, gợi cho trẻ tự nói ra những công việc quy định đó như: Trẻ tự súc cơm, xếp cất bàn ghế sau khi ăn xong, ngủ dậy tự rửa mặt… Ví dụ: Tôi có thể tạo công việc để phân công cho trẻ phụ giúp cô như: Trong giờ ăn lấy ghế, lấy khăn, với trẻ lớn hơn có thể giúp cô kê bàn chia bát, thìa. Tự trải gối niệm chuẩn bị cho giờ ngủ. Học xong cả lớp cùng dọn vệ sinh lớp học. Rèn cho trẻ thói quen, ý thích được tinh thần trách nhiệm để trẻ không khỏi bỡ ngỡ, làm hành trang cho trẻ khi vào tiểu học. Tôi giao nhiệm vụ theo nhóm và luân phiên vai trò: Phân chia trẻ thành các nhóm nhỏ với nhiệm vụ cụ thể như: Nhóm sắp xếp bàn ghế, nhóm chuẩn bị đồ dùng học tập, nhóm kiểm tra vệ sinh khu vực học tập. Luân phiên vai trò trưởng nhóm để mỗi trẻ đều có cơ hội lãnh đạo và chịu trách nhiệm trước tập thể, phát triển kỹ năng quản lý công việc và tinh thần trách nhiệm. Hình ảnh trẻ cất dọn đồ dùng Hình ảnh trẻ trực nhật Tự lập luôn đi kèm với tư duy của trẻ luôn luôn tạo ra cho trẻ những kiến thức, kỹ năng mới để trẻ có thể thực hành trải nghiệm những kỹ năng, kỹ xảo để phát triển rèn luyện tính tự lập, cũng như tư duy hằng ngày cho trẻ được trách nhiệm của mỗi người trong gia đình. Từ đó, trẻ cũng có ý thức được trách nhiệm của mình Ví dụ: Khi mẹ đi làm về xách theo đồ ăn. Mỗi người một việc như: Bố dắt xe cho mẹ, chị cất giỏ xách giúp mẹ, trẻ xách đồ ăn vào bếp giúp mẹ, mẹ sẽ đi thay đồ và nấu ăn khi mẹ nấu ăn có thể nhờ trẻ lấy đồ giúp mẹ bằng cách hỏi để trẻ trả lời, không yêu cầu trẻ làm ngay cho mẹ. Mà cần nhờ trẻ làm nhiều lần tập cho trẻ thói quen. Chú ý khi trẻ mệt thì không nên ép trẻ. Vì tự lập dựa trên yêu thích lao động, nếu ép trẻ quá sẽ gây áp lực. Do đó, muốn giáo dục khả năng tự lập trước hết cần phải đảm bảo cho trẻ có sự yêu thích lao động, thúc đẩy trẻ tham gia vào lao động, lao động trong cuộc sống hằng ngày. Sử dụng bảng theo dõi tiến độ cá nhân. Tạo bảng theo dõi công việc hằng ngày với các biểu tượng dễ hiểu như: Mặt cười, mặt khóc, ngôi sao, bông hoa… để trẻ tự đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của mình. Điều này giúp trẻ tự nhận thức về sự tiến bộ và cố gắng hoàn thiện bản thân mà không cần nhắc nhở từ giáo viên. Khuyến khích trẻ trình bày và đánh giá sản phẩm của mình khi tổ chức các buổi “Triển lãm mini” để trẻ tự trình bày về sản phẩm của mình như: Triễn lãm tranh, các sản phẩm tạo hình. Đồng thời, cho trẻ tự đánh giá hoặc nhận xét chéo sản phẩm của bạn. Điều này khuyến khích trẻ tự tin bày tỏ suy nghĩ và biết cách nhận xét mang tính xây dựng. 3.4. Giáo dục tính tự lập thông qua các hoạt động vui chơi trải nghiệm Tôi thường xuyên cho trẻ ở lớp tham gia vào các buổi trải nghiệm, các hội thi cũng như vài hoạt động tập thể, hoạt động nhóm. Ngoài các giờ hoạt động ngoài trời, nêu gương trả trẻ mỗi ngày…tôi còn tận dụng thêm loại hình văn nghệ nhằm giúp trẻ tự mình thực hiện tốt các bài hát đã được học. Đồng thời qua sinh hoạt này tích lũy cho trẻ tính mạnh dạn, tự tin đứng trước đám đông. Trẻ dám thể hiện những điều trẻ biết và độc lập trong suy nghĩ và dám khẳng định chính bản thân mình. Hình ảnh trẻ tham gia tiết học âm nhạc chào mừng 20/11 Khi tôi thực hiện chương trình văn nghệ cho trẻ, loại nhạc mà tôi sử dụng là nhạc không lời để trẻ hát theo nhạc. Qua những hình thức trên trẻ được tiếp xúc với âm nhạc thường xuyên, cùng sinh hoạt với lớp thường xuyên để tạo cho trẻ mạnh dạn, tự tin, hồn nhiên và gần gũi, thân thiết cùng cô và các bạn sẽ dần mất đi sự thụ động và nhúc nhát. Cho trẻ được tự do và hành động theo suy nghĩ của mình ở mọi lúc, mọi nơi trong mọi việc làm của trẻ cô nên kịp thời khen ngợi trẻ. “Con giỏi lắm, con đã làm được, con đã lớn thật rồi” tạo cho trẻ một ý nghĩ mình đã lớn, đã là được nhiều việc và mình là con người có ích. Từ đó, trẻ sẽ hoạt động tích cực và hứng thú hơn. Tổ chức các hoạt động cho trẻ tình nguyện tham gia vào phù hợp với lứa tuổi của mình như: Chăm sóc cây xanh trong sân trường, dọn dẹp khu vui chơi công cộng...Trẻ sẽ học cách tự chịu trách nhiệm với cộng đồng và biết giúp đỡ người khác. Cho trẻ chia sẻ và thảo luận sau mỗi hoạt động. Tạo không gian để trẻ tự kể lại trải nghiệm, những khó khăn đã gặp và cách tự giải quyết vấn đề. Giáo viên đóng vai trò người dẫn dắt, khuyến khích trẻ tự nhìn nhận bản thân và học hỏi từ bạn bè. 3.5. Làm tốt công tác phối hợp với phụ huynh trong việc rèn luyện tính tự lập cho bản thân trẻ Để đạt được hiệu quả cao nhất trong việc giáo dục tính tự lập cho trẻ thì việc tuyên truyền, phối hợp, kết hợp với phụ huynh là điều vô cùng quan trọng. Trẻ cần phải rèn luyện kỹ năng tự lập ở mọi lúc mọi nơi, ở nhà cũng như ở trường để việc hình thành tính tự lập cho trẻ sẽ mang lại kết quả tốt hơn. Qua thực hiện phối hợp tuyên truyền đến phụ huynh của lớp, trao đổi trong giờ đón trả trẻ, qua zalo nhóm gửi bài, clip…qua các cuộc họp phụ huynh, việc tổ chức mời phụ huynh dự giờ chuyên đề, tham gia hoạt động cùng trẻ giúp phụ huynh hiểu hơn về tầm quan trọng của việc rèn luyện tính tự lập cho trẻ. Hình ảnh phụ huynh tham gia dự giờ học của trẻ Tạo các công cụ giúp liên kết giữa giáo viên với các bậc phụ huynh qua nền tảng phần mềm zalo, facbook. Theo từng chủ đề ngoài việc tuyên truyền nội dung giáo dục trẻ ở nhà trường và ở lớp. Hằng ngày, giáo viên có thể ghi hình về việc trẻ tham gia trong các hoạt động ở lớp, ở trường đưa lên trang liên kết để trẻ có dịp xem lại phụ huynh kịp thời nắm bắt và ủng hộ việc làm của giáo viên, kết hợp việc giáo dục trẻ tại gia đình. Ở cuối chủ đề giáo viên tạo thành những video về những hoạt động tự lập của trẻ ở nhà cũng như ở trường.. Đồng thời tạo sân chơi lôi cuốn sự tham gia của các bậc phụ huynh trong lớp để cùng kết hợp, trong giáo dục trẻ, đặc biệt là giáo dục tính tự lập cho trẻ. Từ đó, rèn luyện tính tự lập một cách hiệu quả. Giáo dục phải tạo cơ hội cho trẻ thấy được những việc làm tốt của trẻ, sau đó giải thích cho trẻ hiểu và động viên trẻ cố gắng lần sau làm tốt hơn nữa. Nếu trẻ yếu thì hãy giải thích kết hợp cho trẻ thực hiện nhiều lần thì trẻ sẽ có kinh nghiệm làm tốt hơn. Hình ảnh trẻ nhặt rau cùng mẹ Ví dụ: Khi nhặt rau mẹ nhờ trẻ giúp. Nếu trẻ không biết mẹ làm mẫu cho trẻ xem. Làm theo thường xuyên, từ đó kinh nghiệm của trẻ được nâng cao, trẻ sẽ không còn yếu ơn các bạn nữa. Chú ý, dạy càng sớm càng tốt, không nên sợ trẻ bị đau hay làm sẽ hư hỏng đồ vật mà không cho trẻ thực hành. 4. Kết quả Từ những cố gắng của bản thân, sự hợp tác của giáo viên dạy cùng lớp, sự ủng hộ nhiệt tình của các bậc phụ huynh đã giúp tôi đạt được một số kết quả trong việc rèn luyện tính tự lập cho trẻ 5-6 tuổi như: 4.1. Đối với trẻ Bằng nhiều giài pháp khác nhau trẻ sẽ được thực hành, tôi thấy trẻ lớp mình ngày càng hứng thú tham gia vào các hoạt động cùng các bạn và cô trong lớp. Đặc biệt trẻ trở nên mạnh dạn, tự tin hơn trong mọi hoạt động. Các kỹ năng tự phục vụ, kỹ năng giữ gìn vệ sinh, kỹ năng giúp đỡ người khác trở nên tốt hơn, không cần cô giáo phải nhắc nhở nhiều mà trẻ thực hiện một cách tự giác, tự nguyện và thích thú với những việc đó. Trẻ năng động, sáng tạo, tự tìm hiểu và giải quyết công việc một cách hợp lý. Trẻ có thói quen lao động tự phục vụ, để rèn luyện kỹ năng tự lập, kỹ năng nhận thức, kỹ năng vận động thô, vận động tin thông qua các hoạt động trong ngày của trẻ. Trong các hoạt động trên lớp, trẻ được đóng vai trò là trung tâm được hoạt động một cách tích cực nhất, phát huy tối đa khả năng tự lập của mình. Qua quá trình đánh giá sự phát triển của trẻ đến nay, trẻ ở lớp tôi có được những sự tiến bộ rõ rệt: SỐ THỨ TỰ TỔNG SỐ TRẺ NỘI DUNG RÈN LUYỆN TÍNH TỰ LẬP SỐ LƯỢNG ĐẠT TỶ LỆ SỐ LƯỢNG CHƯA ĐẠT TỶ LỆ 1 20 Kỹ năng tự phục vụ 19 95% 1 5% 2 Kỹ năng giữ gìn vệ sinh 19 95% 1 5% 3 Kỹ năng giúp đỡ người khác 18 90% 2 10% 4 Kỹ năng bảo vệ bản thân 17 85% 3 15% 5 Kỹ năng năng động, sáng tạo, tự tìm tòi, khám phá và giải quyết vấn đề phù hợp với hoàn cảnh 18 90% 2 10% 6 Kỹ năng tự đưa ra quyết định 17 85% 3 15% 4.2. Đối với giáo viên Giáo viên nắm được mức độ nhận thức và ý đặc điểm tâm lý của trẻ. Giáo viên luôn tạo cơ hội cho trẻ thực hiện những việc phù hợp với khả năng của từng trẻ, để trẻ biết mình có thể tự lập. Bên cạnh đó giáo viên kịp thời nắm bắt nhắc nhở trẻ phát huy những hành vi tốt, thói quen tốt của trẻ. Giáo viên nắm vững và hiểu rõ nội dung giáo dục tính tự lập, biết cách tích hợp nội dung giáo dục tính tự lập cho trẻ trong các hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ. Tạo được nề nếp hoạt động thường xuyên, liên tục, mang tính tự giác cao, đoàn kết nhất trí, quyết tâm thực hiện không ngại khó trong thực hiện nhiệm vụ. Xây dựng môi trường hoạt động phù hợp, giúp trẻ phát triển tính tự lập một cách tốt nhất. Tạo được niềm tin giữa gia đình và nhà trường trong việc chăm sóc và giáo dục trẻ. 4.3. Đối với phụ huynh Phụ huynh có thêm kiến thức, kỹ năng giáo dục, rèn luyện tính tự lập cho trẻ đạt kết quả, tích cực đóng góp ủng hộ các hoạy động của trường của lớp. Phụ huynh thường trao đổi với cô giáo về những phương pháp để rèn luyện tính tự lập cho trẻ và rất tin tưởng cô giáo bởi họ tự nhận thấy sự tiến bộ rõ rệt của con mình. III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 1. Kết luận Giáo dục tính tự lập cho trẻ ngay từ lứa tuổi mầm non là tin tưởng vào khả năng tự lập của trẻ. Cô giáo cần căn cứ vào đặc điểm tâm sinh lý riêng của từng trẻ để đưa ra các hoạt động rèn luyện tính tự lập phù hợp. Chính vì vậy, người giáo viên phải luôn động viên, khích lệ trẻ kịp thời khi trẻ làm tốt việc tự lập, sửa sai cho trẻ kịp thời, không làm giúp, không la mắng hù dọa trẻ. Đặc biệt giáo viên cần phải chấp nhận sự khác biệt của từng trẻ ở lớp để có những giải pháp tác động phù hợp với trẻ. Giáo viên biết kết hợp với cha mẹ trẻ từ đó có những biện pháp giáo dục phù hợp nhằm phát huy khả năng tự lập cho trẻ, làm cơ sở cho sự hình thành nhân cách của trẻ sau này. Rèn cho trẻ thói quen tự phục vụ, kỹ năng giúp đỡ người khác và một số hành vi văn minh trong ăn uống, giao tiếp và trong sinh hoạt hằng ngày. Cần đặc biệt chú trọng đến việc tổ chức hoạt động ngoại khóa hấp dẫn, giúp trẻ có thêm nhiều cơ hội để phát triển tính tự lập. 2. Kiến nghị Nhà trường tạo điều kiện để giáo viên được học tập, trao đổi kinh nghiệm qua các trường trong và ngoài huyện. Trên đây là một vài giải pháp tôi đã áp dụng và mang lại hiệu quả cao trong việc hướng dẫn trẻ tự lập ở trường mầm non cho trẻ mẫu giáo. Trong quá trình thực hiện khó tránh khỏi sơ sót, kính nhờ Hội đồng khoa học các cấp giúp tôi hoàn thành tốt hơn sáng kiến này. Mỹ Qúy Đông, ngày 20 tháng 4 năm 2025 Xác nhận của thủ trưởng đơn vị Người viết Nguyễn Thị Thúy Duy TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Tài liệu tham khảo cẩm nang năng lực phẩm chất đội ngũ giáo viên. 2. Một số vấn đề về lối sống đạo đức chuẩn mực giá trị xã hội. 3. Giáo trình hình thành tính tự lập cho trẻ từ 0-6 tuổi. 4. Trên mạng internet và bạn bè đồng nghiệp. -
“Biện pháp giáo dục kỹ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ 5 – 6 tuổi tại trường mầm non”. TG: Võ Thị Quế Thanh
21/05/2025I. Mở đầu 1. Lý do chọn đề tài, sáng kiến Từ thời xa xưa, có thể nói kỹ năng sống chính là điều kiện quan trọng quyết định sinh tồn của loài người. Con người đã hình thành và thay đổi không ngừng các kỹ năng sống để được tồn tại và phát triển. Nhờ có kỹ năng sống, mỗi cá nhân mới có thể ứng phó và dần thích nghi với những biến đổi của môi trường sống đặc biệt khi rơi vào những tình huống bất lợi, nguy hiểm cho bản thân. Trong kỹ năng sống, kỹ năng tự bảo vệ bản thân chiếm hầu hết và chiếm quan trọng nhằm đảm bảo sự tồn tại của con người. Qua các thời kỳ, kỹ năng tự bảo vệ bản thân dần trở thành nền tảng quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách của con người. Xã hội ngày càng phát triển văn minh, môi trường sống cũng dần trở nên phức tạp, bằng chứng là các tệ nạn lại xảy ra ngày càng gia tăng với mức độ nguy hiểm, tinh vi càng cao nên việc con người được trang bị đầy đủ các kỹ năng để tự bảo vệ bản thân là vô cùng cần thiết, nhất là trẻ em chính là đối tượng thường bị nhắm đến nhất của những người xấu khi trẻ chưa có khả năng phân biệt hết mọi thứ xung quanh, chưa có kinh nghiệm gì trong cuộc sống. Trẻ mầm non là lứa tuổi còn rất non nớt, trẻ còn rất yếu ớt về mặt thể chất và không đủ khả năng phản ứng lại với những tiêu cực từ bên ngoài. Chính vì thế ngay từ khi trẻ còn ngồi trên ghế nhà trường thì việc giáo dục kỹ năng cho trẻ là nhiệm vụ hết sức cần thiết. Trong những năm gần đây, nạn bắt cóc, xâm hại tình dục trẻ em ngày càng cao khiến cho nhiều bậc phụ huynh lo lắng. Tuy nhiên việc cha mẹ chưa có đầy đủ kiến thức hoặc chưa biết cách giáo dục trẻ thường cấm đoán, giáo dục trẻ một cách cứng nhắc mà quên đi việc cần phải giải thích cho trẻ hiểu lý do vì sao và hậu quả có thể xảy ra là gì khiến cho việc hình thành kỹ năng cho trẻ không hiệu quả và càng khiến trẻ có tâm lý muốn khám phá lại càng thêm tò mò hơn. Song song đó, tỉ lệ trẻ em bị tai nạn thương tích khi ở nhà cũng này một gia tăng như trẻ bị bỏng nước sôi, té ngã từ trên cao, điện giật, ngộ độc,... một phần do sự tò mò hiếu động ở trẻ muốn được khám phá mọi thứ xung quanh nhưng phần lớn vẫn là do sự chủ quan thiếu giáo dục của người lớn dẫn đến việc trẻ chưa có kiến thức đầy đủ về những nguy hiểm của các đồ dùng trong gia đình dẫn đến nhiều trường hợp trẻ bị di chứng tàn tật suốt đời, thậm chí tử vong rất thương tâm. Sau một thời gian chủ nhiệm lớp đã được phân công, tôi nhận thấy mặc dù trẻ đã có một vài kỹ năng sống hằng ngày như kỹ năng gấp quần áo, kỹ năng biết chào hỏi lễ phép,...tuy nhiên trẻ vẫn chưa biết tránh xa những đồ dùng, những nơi không an toàn, chưa biết cách xử lý được tình huống khi gặp nguy hiểm. Từ những lý do trên tôi đã quyết định chọn đề tài “Biện pháp giáo dục kỹ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ 5 – 6 tuổi tại trường mầm non”. 2. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài, sáng kiến Nhằm giúp trẻ hình thành và rèn luyện các kỹ năng tự bảo vệ bản thân để trẻ có thể tự phân biệt và biết cách bảo vệ mình thoát khỏi những nơi, những tình huống nguy hiểm. Từ đó giúp trẻ trở nên tự tin và chủ động hơn trong cuộc sống, trẻ có khả năng vượt qua các tình huống khó khăn và thử thách một cách hiệu quả hơn. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Trẻ mầm non đặc biệt là trẻ trong giai đoạn 5 – 6 tuổi đã có sự nhận thức và phát triển về mọi mặt, cả về thể chất, trí tuệ, ngôn ngữ lẫn tính cách. Tuy vậy ở độ tuổi này trẻ còn quá nhỏ để có thể hiểu hết và tự bảo vệ bản thân trước những cạm bẫy, nguy hiểm luôn rình rập xung quanh mình. Điều đó cho ta thấy được tầm quan trọng của việc giáo dục trẻ biết cách bảo vệ bản thân mình trước những nguy hiểm và phòng tránh những tai nạn thương tích. Đề tài này có thể được áp dụng cho các trẻ ở độ tuổi mầm non, đặc biệt là lứa tuổi 5-6 tuổi của trường mầm non Rạng Đông trong năm học 2024-2025. II. Nội dung 1. Cơ sở lý luận Bác Hồ đã từng nói “Không có giáo dục thì không nói gì đến kinh tế -văn hóa” mà sản phẩm của giáo dục cũng chính là con người. Trẻ mẫu giáo nói chung hay trẻ lứa 5-6 tuổi nói riêng đang trong gia đoạn hình thành và phát triển, trẻ ham học hỏi, thích khám phá tất cả mọi thứ nhưng vốn hiểu biết và kỹ năng ứng phó còn non nớt với những nguy hiểm xung quanh. Vì vậy việc giúp trẻ trang bị những kỹ năng cơ bản để tự bảo vệ mình là việc làm hết sức cần thiết, giống như việc chuẩn bị hành trang vững chắc giúp cho trẻ có thể ứng phó lại với những nguy hiểm xung quanh, trẻ có thể mạnh dạn, tự tin vững bước vào đời. Ở nước ta, Nhà nước cũng đã dành sự quan tâm đến Kỹ năng sống của thế hệ trẻ thông qua Công văn số 463/BGDĐT-GDTX ngày 28/1/2015 về việc triển khai thực hiện giáo dục kỹ năng sống tại các cơ sở Giáo dục mầm non, Nghị định số 24/2021/NĐ-CP ngày 23/3/2021 của Chính phủ quy định việc quản lý trong cơ sở giáo dục mầm non và cơ sở giáo dục phổ thông công lập. Những công văn, nghị định đó cho thấy được tầm quan trọng trong việc giáo dục các kỹ năng sống để hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ, đặc biệt là trẻ mầm non. 2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu Trước khi thực hiện đề tài tôi đã tiến hành khảo sát thực tế và thu được kết quả như sau: 2.1. Thuận lợi Ban giám hiệu nhà trường luôn theo dõi sát sao và tạo môi trường cho trẻ được vui chơi, học tập. Đặc biệt nhà trường luôn chú trọng bồi dưỡng các điều kiện về tài liệu chuyên môn và cơ sở vật chất cho giáo viên. Bộ phận chuyên môn luôn khuyến khích giáo viên sáng tạo và học hỏi từ các đồng nghiệp, sách báo và các trang mạng để nâng cao trình độ chuyên môn cho bản thân. Giáo viên luôn dành sự quan tâm, lắng nghe và yêu thương trẻ như người mẹ, luôn tìm tòi những cái mới, chọn lọc những điều tốt cho trẻ để đưa vào trong bài dạy. Được sự ủng hộ và hỗ trợ nhiệt tình của phụ huynh trong việc hỗ trợ nguyên vật liệu cho trường, lớp. 2.2. Khó khăn Các kỹ năng của trẻ đầu năm còn nhiều hạn chế, chỉ dừng lại ở việc tự chăm sóc, vệ sinh cá nhân. Chưa có nhận thức nhiều về việc bảo vệ bản thân khỏi tình huống nguy hiểm. Đa số các bậc cha mẹ, ông bà còn tâm lý ngại ngùng trong việc phối hợp với giáo viên giáo dục giới tính cho trẻ. Một số phụ huynh còn dành nhiều thời gian cho công việc và giải trí bằng điện thoại mà ít quan tâm đến con cháu mình. Việc đưa các bài dạy giáo dục kỹ năng cho trẻ vào kế hoạch giáo dục còn hạn chế, còn mang tính tích hợp nhiều. Ngay từ đầu năm học, tôi đã lập ra các tiêu chí để khảo sát trẻ về các kỹ năng tự bảo vệ bản thân và thu về kết quả như sau: Bảng số liệu tôi đã thực hiện khảo sát trên trẻ đầu năm học TT Nội dung khảo sat́ Đạt Chưa đạt Số trẻ Tỉ lệ % Số trẻ Tỉ lệ % 1 Trẻ nhận biết đồ vật, tình huống nguy hiểm, không an toàn. 12 50% 12 50% 2 Trẻ có kiến thức phòng tránh mối nguy hiểm. 10 41,7% 14 58,3% 3 Có kỹ năng xử lý tình huống khi gặp vấn đề nguy hiểm. 9 37,5% 15 62,5% 3. Các giải pháp 3.1. Lồng ghép giáo dục trẻ các kỹ năng tự bảo vệ bản thân thông qua các hoạt động theo chủ đề 3.1.1. Lựa chọn nội dung giáo dục thông qua từng chủ đề cụ thể Con người cần có rất nhiều kỹ năng để tự bảo vệ bản thân trong xã hội hiện nay nên khó có thể lựa chọn đầy đủ những nội dung giáo dục kỹ năng khác nhau trong cuộc sống để giáo dục cho trẻ. Vào đầu năm học tôi đã dựa vào đặc điểm tâm sinh lý của trẻ trong trường mầm non nói chung và trẻ 5- 6 tuổi lớp tôi nói riêng, trẻ có hoạt động chủ đạo là “học bằng chơi, chơi mà học”, không những thế tôi còn dựa vào quyển sách chương trình giáo dục Mầm non mới và tình hình cụ thể của trường, của lớp mình. Trên cơ sở dự kiến chủ đề trong năm nay, tôi đã lựa chọn những nội dung phù hợp với trẻ lớp tôi với mong muốn trẻ có thể nhận biết các đồ vật, những nơi hoặc tình huống không an toàn, có kiến thức phòng tránh những mối nguy hiểm xung quanh và có kỹ năng xử lý tốt các tình huống nguy hiểm. Tôi đã lập kế hoạch và lựa chọn các kỹ năng bảo vệ bản thân phù hợp với trẻ để đưa vào từng chủ đề vào đầu năm học một cách chi tiết nhất nhằm mục tiêu giáo dục trẻ đạt hiệu quả cao. Bảng nội dung giáo dục kỹ năng tự bảo vệ bản thân TT Chủ đề trong năm học Các kỹ năng Tháng thực hiện 1 Trường Mầm non Kỹ năng chơi đồ chơi ngoài trời an toàn, biết tránh xa những nơi nguy hiểm. Tháng 09 2 Bản thân Không nghe theo và nhận quà của người lạ Phòng tránh bị xâm hại cơ thể. Biết không tự ý uống thuốc, vệ sinh cá nhân đúng cách . Tháng 10 3 Gia đình Không tự ý chơi những nơi nguy hiểm, đồ vật gây nguy hiểm. Lựa chọn người lớn nhờ sự giúp đỡ khi bị lạc. Biết thoát hiểm khi gặp hoả hoạn. Tháng 10 4 Nghề nghiệp Không chơi với một số dụng cụ nghề sắc nhọn, gây nguy hiểm. Không chơi ở nơi làm việc nguy hiểm, công trường. Tháng 11 5 Động vật Không đến gần, chọc phá một số động vật gây nguy hiểm. Tháng 12 6 Tết và mùa xuân Ăn uống lành mạnh, hợp vệ sinh trong ngày tết. Không ăn thức ăn có hư hỏng, biến chất. Tháng 01 7 Thực vật Không leo trèo lên cây. Không ăn quả lạ Tháng 02 8 Phương tiện giao thông Chấp hành luật giao thông, nhận biết một số biển báo giao thông cơ bản. Biết ngồi ngay ngắn khi tham gia giao thông Biết đội mũ bảo hiểm đúng cách. Tháng 03 9 Nước- hiện tượng tự nhiên Không đến gần những nơi nguy hiểm: sông, suối ao, hồ. Không ra ngoài đường khi thời tiết xấu Tháng 04 10 Quê hương đất nước Bác Hồ Đi cạnh người lớn khi đi du lịch. Tháng 05 Việc chọn lọc các kỹ năng để bảo vệ bản thân vào những tình huống có thể xảy ra nhất đối với trẻ là vô cùng cần thiết. Các nội dung luôn được thay đổi theo từng chủ đề khác nhau đến cuối năm học, đảm bảo không bị trùng lặp và có nội dung cụ thể, chi tiết nhất với mục đích giúp cung cấp kiến thức cho trẻ biết cách xử lý khi gặp vấn đề nguy hiểm xảy ra. Đồng thởi giúp cho giáo viên dễ dàng lập kế hoạch giáo dục năm học, tháng, tuần, kế hoạch ngày, soạn giáo án để xác định mục tiêu, yêu cầu cần đạt được sau khi giáo dục trẻ. Ví dụ: Khi học đến chủ đề Thực vật, cô chọn kỹ năng giáo dục trẻ biết khi chơi không leo trèo cây trong sân trường, không ngắt hoa, bẻ cành giúp cây xanh luôn tươi tốt. Ảnh: Trẻ nhận thức được hành động nào là không nên và khuyên bạn không làm 3.1.2. Dạy trẻ nhận biết và phòng tránh tai nạn thương tích thông qua hoạt động góc Trong quá trình trẻ học ở lớp, hoạt động chủ yếu vẫn là chơi nên việc giáo dục trẻ kỹ năng bảo vệ bản thân trong hoạt động này là rất cần thiết. Khi đó trẻ có thể nhận biết những đồ vật, những nơi không an toàn, từ đó hình thành và rèn luyện kỹ năng bảo vệ bản thân phù hợp. Trong khi trẻ chơi ở các góc, các hoạt động của trẻ đều dựa vào những hành động hàng ngày của người lớn. Giáo viên sẽ là người quan sát, trò chuyện cùng trẻ và hướng cho trẻ cách nhận biết và phòng tránh tốt nhất vào lúc nhận xét cuối giờ để trẻ có thể ghi nhớ sâu hơn. Ví dụ: + Ở chủ đề Luật và phương tiện giao thông, cô cho trẻ xem và phân biệt hành động đúng - sai theo tình huống trong tranh khi trẻ chơi ở góc học tập. + Khi trẻ chơi ở góc nội trợ hoặc góc gia đình, thông qua giáo dục của cô trẻ nhận biết được dao, kéo là đồ dùng nguy hiểm. Nên khi trẻ chơi sẽ biết cách tự bảo vệ bản thân mình bằng cách sử dụng dao kéo nhẹ nhàng, cẩn thận. Sau khi sử dụng xong biết cất đúng nơi quy định. Ảnh: Trẻ sử dụng mũ bảo hộ khi chơi góc xây dựng, biết sử dụng dao kéo cẩn thận. 3.1.3. Dạy trẻ nhận biết mối nguy hiểm thông qua hoạt động dạo chơi, tham quan, hoạt động ngoài trời Do khuôn viên sân trường có diện tích lớn, có nhiều khu vực và đồ chơi ngoài trời nên trẻ có thể tự do vui chơi với bạn bè và hoạt động thoải mái. Tuy nhiên, nguy cơ tiềm ẩn theo đó là trẻ rất dễ bị chấn thương trong quá trình chơi như: trầy da, gãy xương, bong gân, trật khớp….Vì thế cô cần giáo dục trẻ thông qua hình thức là các trò chơi, quan sát tranh hoặc video, đàm thoại trước khi cho trẻ ra hoạt động để trẻ có thể ghi nhớ ngay và cẩn thận hơn khi chơi. Trước khi chơi cô giáo dục trẻ về các mối nguy hiểm có thể xảy ra khi chơi và cho trẻ nhắc lại nhiều lần. Khi ra sân chơi cô quan sát, chú ý đến trẻ, kiểm tra khu vực sẽ tiến hành hoạt động chơi. Từ những hình ảnh thực tế như trẻ chạy, nhảy, đuổi nhau, ngã... và những lời cô dạy trẻ sẽ biết cân nhắc bản thân khi chơi để bảo vệ bản thân mình. Ví dụ: Khi trẻ chơi tự do ở ngoài trời, nếu trẻ phát hiện bạn mình chơi ở gần khu vực nguy hiểm như ao, hồ thì trẻ sẽ dùng những kiến thức cô đã dạy để ngăn cản bạn mình. Hoặc giáo viên sẽ cùng cả lớp đến và giáo dục cho tất cả trẻ giúp trẻ nhớ lâu hơn. Ảnh: Cô giáo dục cho trẻ biết cách tự bảo vệ bản thân trước khi ra sân chơi 3.2. Xây dựng các tiết học dạy trẻ những kĩ năng cơ bản và đặt các tình huống giả định. Hoạt động học là hoạt động giáo viên có thể truyền tải được nhiều nhất những nội dung cần giáo dục cho trẻ. Trẻ mầm non đặc biệt là lứa tuổi 5 – 6 tuổi luôn hiếu động, tò mò thế giới xung quanh với mong muốn được khám phá mọi thứ mà trẻ nhìn thấy. Những mối nguy hiểm xung quanh trẻ luôn có thể xảy ra bất cứ lúc nào bởi trẻ là một cá thể non nớt về cả thể chất và tinh thần. Việc xây dựng các tiết học nhằm mục đích giúp cho trẻ nhanh chóng nhận thức và hình thành các kỹ năng bảo vệ bản thân. Việc giúp trẻ nhận biết được những mối nguy hiểm và biết cách tự bảo vệ chính mình là điều tôi luôn trăn trở và đặc biệt quan tâm. Bởi thế tôi quyết định đưa vào để giáo dục trẻ các kỹ năng thông qua hoạt động học. Tôi đã lựa chọn ra những mối nguy hiểm thường gặp như thiết bị điện bị cháy nổ, ga, nước, nhà vệ sinh, khi trẻ ở nhà một mình,...đều là những vấn đề thường gặp trong trường, lớp và gia đình nơi trẻ sinh sống để việc giáo dục trẻ kỹ năng tự bảo vệ đạt được hiệu quả tốt nhất, tôi đã chủ động đưa những nội dung giáo dục kỹ năng bảo vệ bản thân thành hoạt động chính trong giờ học để giáo dục trẻ, tránh trường hợp cô luôn nói trẻ nghe một cách thụ động trẻ sẽ rất mau quên và không đọng lại chút kỹ năng nào. Trong tiết học phòng tránh tai nạn thương tích, giáo viên cho trẻ tự trải nghiệm thông qua các tình huống và thấy được một cách thực tế nhất những hậu quả xấu có thể xảy ra khi trẻ chưa có kiến thức, kỹ năng để tự bảo vệ bản thân. Ví dụ: Khi học đến chủ đề Bản thân - Gia đình tôi chọn giáo dục trẻ kỹ năng “Không tự ý chơi những nơi nguy hiểm, đồ vật gây nguy hiểm”. Tôi tạo tình huống cho trẻ đến nhà bạn Lan chơi, khi đến nhà có rất nhiều đồ dùng gia đình trong gia đình. Cô sẽ để mỗi trẻ tự do hoạt động. Sau đó cô hỏi trẻ đã làm gì và cho trẻ xem các tình huống và kết quả thực tế nếu giải quyết các tình huống giống như trẻ. Từ đó cô và trẻ sẽ cùng chọn ra phương án tốt nhất để bảo vệ bản thân. Ví dụ: Sau khi đã cung cấp kiến thức kỹ năng trong giờ hoạt động học, vào giờ hoạt động chơi hay hoạt động chiều tôi thường cho trẻ thực hành các bài tập về xử lý các tình huống nhằm giúp cho trẻ củng cố, khắc sâu thêm kiến thức đã học: “Tô màu bạn nhỏ có hành động đúng nhằm bảo vệ bản thân”, “ Nối bức tranh vẽ tình huống với các bức tranh có cách xử lý đúng”, “Vẽ khuôn mặt cười vào ô trống bên cạnh bạn có hành động đúng để bảo vệ được bản thân, khuôn mặt buồn vào ô trống bên cạnh bạn có hành động sai”,... Khi đó từng cá nhân trẻ sẽ phải vận dụng kiến thức đã học, tự lập luận để xử lý tình huống. Qua đó cô có thể đánh giá mức độ tiếp thu được của từng cá nhân trẻ từ đó có cách thức, biện pháp giáo dục tiếp theo cho phù hợp với từng trẻ. Ảnh: Trẻ thực hành các bài tập củng cố các kỹ năng Ví dụ: Khi trẻ học đến chủ đề Luật và Phương tiện Giao thông, tôi tiến hành dạy trẻ kỹ năng: Biết đội mũ bảo hiểm đúng cách như sau: Đầu tiên, tôi chia lớp thành 2 nhóm và cho trẻ quan sát 3 bức tranh. Một bức tranh người tham gia giao thông không đội mũ bảo hiểm. Một bức tranh người tham gia giao thông có đội mũ nhưng bị rộng quai. Một bức còn lại người tham gia giao thông đội mũ đúng cách. Cô cho 2 nhóm cùng thảo luận và nêu hậu quả, từ đó đưa ra các biện pháp để bảo vệ mình khi ngồi trên xe máy. Sau khi đại diện 2 nhóm trình bày xong, cô tóm ý lại và kết luận, từ đó giáo dục trẻ kỹ năng đội mũ bảo hiểm đúng cách để bảo vệ bản thân. Ảnh: Trẻ biết cách đội mũ bảo hiểm khi ngồi trên xe máy Ví dụ: Trong những ngày gần đây, thời tiết hanh khô dễ xảy ra các trường hợp cháy, nổ. Bằng chứng là có khá nhiều vụ hỏa hoạn ở các hộ gia đình khiến cho nhiều người bị bỏng nặng, thậm chí tử vong. Nên việc giáo dục trẻ kỹ năng thoát hiểm, bảo vệ bản thân trong giai đoạn này là vô cùng cần thiết. Để giáo dục trẻ có kỹ năng này, tôi đã tiến hành như sau: Đầu tiên tôi dùng đạo cụ để nhiều khói bay ra kèm theo tiếng lửa cháy, sau đó hô cháy để trẻ nhận biết được đang có hỏa hoạn xảy ra. Sau đó cô hỏi trẻ nên làm gì để có thế thoát ra ngoài mà không bị ngạt khói. Sau đó cho trẻ tiến hành thực hiện theo ý trẻ. - Tiếp theo giáo viên cho trẻ quan sát kết quả nếu làm theo các cách của trẻ. Cả lớp cùng nhau thảo luận và trẻ sẽ cho ý kiến. - Cuối cùng cô sẽ cùng trẻ chốt lại cách an toàn và tốt nhất để thoát hiểm ra ngoài. - Bước tiếp theo tôi cho lớp chia nhóm để bàn về nguyên nhân và cách xử lý khi lửa bén vào người. Cô mời trẻ đại diện lên chia sẻ về những gì trẻ vừa thảo luận cho các bạn cùng nghe. Sau đó cô tóm lại nguyên nhân, cách thoát hiểm và cho trẻ nhắc lại. + Bước 1: Nếu gia đình có chuông báo cháy hãy gọi ngay đến số 114. + Bước 2: Nhanh thoát ra khỏi nơi có đám cháy, nếu có khói phải dùng khăn ẩm bịt vào mũi, miệng và đi cúi thấp người. + Bước 3: Nếu lửa bén vào người hãy cố gắng dập tắt bằng cách lăn qua lăn lại trên đất. Giáo viên cho trẻ thực hành kỹ năng thoát hiểm. Ảnh: Trẻ thực hành kỹ năng thoát hiểm khi xảy ra cháy Hiện nay, nạn xâm hại tình dục trẻ em ngày càng cao và tính chất càng nghiêm trọng, nhiều chuyện đau lòng ấy xảy ra nguyên nhân lại từ chính những người thân của trẻ. Bên cạnh đó, do phụ huynh ít quan tâm dẫn đến trẻ không được trang bị đầy đủ kiến thức về giới tính và các biện để tự bảo vệ cho bản thân, pháp phòng chống xâm hại thân thể. Ngay trong chủ đề "Bản thân" tôi đã dạy trẻ nhận biết các bộ phận trên cơ thể có những bộ phận nào là vùng riêng tư, giáo dục trẻ những kiến thức về giới tính, những bộ phận người ngoài không được đụng đến ngoài bố mẹ, bạn bè hay họ hàng chỉ nên tiếp xúc bằng tay... tôi dạy trẻ phải luôn ghi nhớ quy tắc “5 ngón tay” để tránh bị người khác xâm hại tình dục. Ảnh: Quy tắc 5 ngón tay luôn được đặt ở nơi trẻ dễ nhìn thấy ở trường Những câu hỏi hướng trẻ giải quyết vấn đề luôn được tôi quan tâm đặc biệt. Hệ thống câu hỏi cô đưa ra phải dễ hiểu, xoáy vào trọng tâm, ngắn gọn không dài dòng, như vậy trẻ mới hiểu được rõ vấn đề và tìm cách xử lý vấn đề một cách nhanh nhất, khi đó việc giáo dục kỹ năng bảo vệ được bản thân cho trẻ mới đem lại hiệu quả. Đối với trẻ mầm non, đặc biệt là lứa 5 -6 tuổi thì việc sử dụng ngôn ngữ y khoa vẫn còn rất khó để trẻ có thể hiểu được chính xác, đầy đủ nên việc sử dụng dụng cụ trực quan hỗ trợ là rất cần thiết. Để giáo dục trẻ tránh bị xâm hại tình dục, cô phải cho trẻ biết được những bộ phận nào là bộ phận kín, cần được chăm sóc, giữ gìn. Tuyệt đối không để người khác nhìn thấy hoặc chạm vào nó. Khi đó việc sử dụng tranh ảnh bé trai, bé gái hoặc búp bê trai, búp bê gái là phương tiện giúp trẻ nhớ kỹ, hiểu sâu hơn kiến thức. Nhờ phương pháp trực quan, hình ảnh được lưu giữ trong trí nhớ, trẻ có thể dễ dàng áp dụng trong thực tế. Việc tạo ra môi trường học tập thoải mái và không áp lực cho trẻ mầm non là một yếu tố quan trọng khi giáo dục giới tính. Khi nói về cơ thể mình trẻ có thể ngại ngùng hoặc không thoải mái, vì thế giáo viên không được đánh giá hay chỉ trích mà cần khuyến khích trẻ chia sẻ một cách tự nhiên, gần gũi trẻ để trẻ có thể bày tỏ suy nghĩ của mình. Không chỉ giáo dục trẻ tránh bị xâm hại, giáo viên phải giáo dục giới tính cho trẻ đầy đủ và đúng lúc để trẻ có nhận thức đúng đắn về giới tính của bản thân. Khi được dạy kiến thức về giới tính, trẻ sẽ biết cách tôn trọng sự khác biệt giới tính giữa bạn trai, bạn gái và có ý thức về sự tôn trọng quyền cá nhân của người khác. Khi đó trẻ bắt đầu biết cách ứng xử đúng mực trong các mối quan hệ xã hội, đặc biệt là khi ở trong trường. Ví dụ: tôi giáo dục cho trẻ biết bạn trai bạn gái phải có nơi riêng tư khác nhau như sẽ có khu vệ sinh riêng dành riêng cho bạn trai, bạn gái, không được tự ý đi sai khu vực của mình. Khi thay đồ không được nhìn hoặc chỉ trỏ, trêu ghẹo bộ phận riêng tư của người khác. Nơi bạn trai ngủ sẽ cách xa bạn gái, không ngủ gần. Giáo viên luôn kết hợp giữa giáo dục và xây dựng tình huống đan xen nhau nhằm phát huy tối đa hiệu quả giáo dục cho trẻ. Tôi đã đưa ra tình huống cho trẻ suy nghĩ trả lời khi có ai đó cố tình không tôn trọng, đụng chạm vào vùng riêng tư của mình. Trẻ sẽ đưa ra nhiều ý kiến khác nhau nhằm thoát khỏi tình huống đó. Sau đó cô cùng trẻ xem tranh hoặc video kết quả khi lựa chọn những phương án trẻ đưa ra, cuối cùng chọn lọc và đưa ra các bước cơ bản cần thiết khi gặp phải tình huống tương tự. Bước 1: Nói “Không”một cách quyết liệt. Bước 2: Gạt tay thật mạnh, cắn thật mạnh vào tay, vai kẻ xấu. Bước 3: Chạy thật nhanh đến nơi đông người, hô to để tìm sự giúp đỡ từ mọi người. Bước 4: Tìm người có thể tin cậy, tạo được sự an toàn cho bản thân như ba mẹ, cảnh sát để thông báo cho họ biết về tình trạng mình đang gặp phải. Ví dụ : tình huống cô đưa ra là Con sẽ làm gì khi bị lạc ba mẹ ở siêu thị, khi vui chơi. Cô cho trẻ suy nghĩ hoặc có thể thảo luận với bạn trong nhóm nhằm tìm ra nhiều giải pháp hơn và cho trẻ có thể nêu ý kiến, tranh luận với nhau. Cô vẫn quan sát và đưa ra câu hỏi đúng lúc nhằm hướng trẻ trả lời “Con nghĩ khóc to thì ba mẹ của con có nghe được không? Vậy thì con sẽ làm gì lúc đó?... sau khi nghe trẻ nêu ý kiến khác nhau, cô chốt lại và giáo dục trẻ điều đầu tiên là hãy giữ bình tĩnh bằng cách hít thở sâu. Sau đó hãy đứng yên một chỗ đợi ba mẹ tìm đến, không đi theo bất cứ người lạ nào dù họ có nói sẽ đưa con đi tìm ba mẹ. Hoặc có thể tí đến những người đáng tin cậy như bác bảo vệ, cô nhân viên để nhờ họ giúp đỡ. Càng có nhiều tình huống cô đưa ra sẽ là bài học ứng dụng thực tiễn tốt nhất để trẻ có thể hình thành và rèn luyện kỹ năng bảo vệ bản thân một cách tốt nhất. Trẻ được trải nghiệm sẽ trở nên tự tin, mạnh dạn hơn khi có vốn kỹ năng vững chải. 3.3. Nâng cao nhận thức cho bản thân người giáo viên về việc dạy trẻ kỹ năng tự bảo vệ bản thân Giáo viên mầm non chính là người gần gũi, bên cạnh trẻ nhiều nhất trong ngày. Thấu hiểu được điều đó, Bộ giáo dục và đào tạo đã thực hiện Công văn số 463/BGDĐT-GDTX ngày 28/1/2015 về việc triển khai thực hiện giáo dục kỹ năng sống tại các cơ sở Giáo dục mầm non. Trong đó, công văn chỉ rõ mục đích quan trọng là giúp cho giáo viên chủ động, tích cực trong việc tự bồi dưỡng kỹ năng sống cho bản thân và giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. Để có thể giáo dục các kỹ năng sống cho trẻ nói chung và kỹ năng tự bảo vệ bản thân nói riêng, đòi hỏi người giáo viên phải có kinh nghiệm sống phong phú và khả năng truyền đạt kiến thức cho trẻ. Với mục tiêu hình thành và rèn luyện cho trẻ kỹ năng sống cho trẻ, đặc biệt là kỹ năng tự bảo vệ bản thân, nhà trường đã tạo điều kiện cho giáo viên tổ chức dự giờ các hoạt động chuyên đề để cùng nhau học tập và nắm vững phương pháp tổ chức. Tôi đã tìm tòi, nghiên cứu sách báo, internet, qua học tập đồng nghiệp các trường khác nhằm nâng cao trình độ chuyên môn của bản thân. Ví dụ: Tôi đã học tập được rất nhiều các kỹ năng sống, cách xử lý tình huống qua các video ý nghĩa của các trang Quà tặng cuộc sống, Giáo dục Mầm non trên Youtube. Hay được tham khảo các loại sách như Bộ tài liệu Giáo dục Kỹ năng sống dành cho trẻ mầm non, Bộ sách giáo dục giới tính An toàn cho con yêu, ở mỗi quyển đều truyền tải những kiến thức, bài học bổ ích liên quan đến giáo dục kỹ năng sống, giáo dục giới tính cho trẻ từ việc nhận biết và gọi tên các bộ phận trên cơ thể, biết cách xử lý khi gặp những tình huống nguy hiểm cho bản thân, biết nhờ sự giúp đỡ của người lớn khi cảm thấy không an toàn. Bên cạnh đó, giáo viên phải luôn giữ vững các nguyên tắc trong quá trình giáo dục kỹ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ. Những nguyên tắc gồm: - Luôn động viên, khen thưởng trẻ kịp thời. Những lời nói tích cực luôn trở thành động lực to lớn giúp con người vượt qua mọi khó khăn, thử thách. Đối với trẻ mầm non cũng vậy, trẻ luôn muốn được chứng tỏ bản thân của mình và những lời động viên, khen thưởng từ cô sẽ tạo được niềm tin ở trẻ, kích thích trẻ mạnh dạn khẳng định chính mình. Vì thế tôi luôn khen ngợi, động viên trẻ trong mọi hoạt động để giúp trẻ tự tin hơn trong việc học tập. Ảnh: Cô khen ngợi khi trẻ thực hiện được yêu cầu Ví dụ: Đối với trẻ nhút nhát thì việc nói lên suy nghĩ bản thân hoặc phản ứng quyết liệt khi gặp kẻ xấu là điều vô cùng khó khăn. Nên khi giáo dục trẻ tự bảo vệ bản thân, tôi sẽ dành những lời khen ngợi và phần quà dành riêng cho trẻ khi biết hô thật to kêu cứu. - Cô luôn thường xuyên trò chuyện, hỏi han trẻ. Trò chuyện cùng trẻ là phương tiện đơn giản nhưng hữu hiệu nhất để cô và trẻ gần gũi hơn, khiến cho trẻ có sự tin tưởng ở cô hơn. Tôi luôn dành thời gian để được trò chuyện với trẻ ở mọi lúc mọi nơi khi có điều kiện, với những câu hỏi đơn giản của cô thể hiện sự quan tâm như Buổi tối con và gia đình thường làm gì cùng nhau? Con ở nhà với ai?... 3.4. Ứng dụng công nghệ thông tin trong việc giáo dục kỹ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ Bên cạnh những biện pháp thực tiễn như xây dựng tình huống, hay lồng ghép các bài thơ, ca dao cho trẻ thấm nhuần kỹ năng. Thì việc sử dụng công nghệ thông tin để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ trở nên vô cùng cần thiết. Ngày nay, mạng xã hội đã và đang trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống của con người. Trẻ em được tiếp xúc với công nghệ từ rất sớm và việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động dạy và học ngày càng được phổ biến rộng rãi trong ngành giáo dục. Trên các nền tảng youtube, facebook, google,...đều có rất nhiều những video clip, phim hoạt hình, phim ngắn có nội dung hay, ý nghĩa nhằm giáo dục các kỹ năng tự bảo vệ bản thân. Vào giờ đón trẻ hay hoạt động chiều, tôi cho trẻ xem clip kết hợp tương tác với giáo viên thông qua đàm thoại, dự đoán kết quả xảy ra. Từ những hình ảnh đầy màu sắc, âm thanh sinh động cùng với sự phân tích của cô giúp trẻ dễ hiểu, ấn tượng và khắc sâu hơn bài học, góp phần nâng cao hiệu quả của việc giáo dục kỹ năng cho trẻ. Ví dụ: Khi trẻ học đến chủ đề Động vật. Tôi cho trẻ xem đoạn phim ngắn “Không trêu con vật”. Khi xem cô và trẻ đàm thoại, cho trẻ nói lên ý kiến của mình nếu có hành động chọc phá động vật thì sẽ như thế nào, và nên làm gì khi gặp phải động vật hung dữ. Qua, trẻ có thể học được những kiến thức hữu ích từ những chia sẻ của đoạn clip đó là Không đến gần, chọc phá một số động vật gây nguy hiểm. Ngoài ra, các ứng dụng hỗ trợ giảng dạy cho giáo viên như Canva, Chat Gpt, Capcut, Vnpt Al...giúp cho giáo viên có thể thiết kế bài dạy theo ý tưởng mình, phát huy tối đa sự sáng tạo của giáo viên, từ đó giúp cho buối học thêm hấp dẫn, sinh động. Ví dụ: Để xây dựng tiết học hoặc các tình huống giả định, tôi thường sử dụng ứng dụng Canva, Capcut và các ứng dụng khác để tạo nên một câu chuyện, một tình huống riêng biệt một cách sinh động, không bị lệ thuộc vào các đoạn phim có sẵn. Qua đó trẻ biết thêm được những tình huống, câu chuyện khác, giúp trẻ hình thành và củng cố thêm các kỹ năng tự bảo vệ bản thân khác trong cuộc sống. Không chỉ giúp cho việc giáo dục thêm phong phú, sức mạnh công nghệ 4.0 còn giúp tạo sợi dây liên kết giữa giáo viên và phụ huynh thêm bền chặt. Phụ huynh có thể nắm được thông tin nhanh nhất về tình hình học tập của trẻ ở trường, giáo viên có thể liên hệ phụ huynh mọi lúc mọi nơi khi cần thiết. 3.5. Tăng cường công tác tuyên truyền vận động phụ huynh tham gia rèn kỹ năng bảo vệ bản thân cho trẻ Việc giáo dục trẻ hiện nay đòi hỏi phải luôn có sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường và gia đình nói chung hay giữa giáo viên và phụ huynh nói chung. Tôi thực hiện phối hợp với phụ huynh theo hai hình thức đó là trực tiếp và gián tiếp. Để có một môi trường giáo dục an toàn và đa dạng. Tôi lập kế hoạch và vận động phụ huynh trong cuộc họp đầu năm đóng góp vật liệu có sẵn hoặc tái chế để cùng nhau làm ra các đồ dùng đồ chơi vừa tiết kiệm chi phí vửa đảm bảo an toàn cho trẻ. Thông qua các cuộc họp trong năm, những buổi dự giờ có phụ huynh tham gia và giờ đón, trả trẻ tôi luôn dành thời gian tuyên truyền và trao đổi với phụ huynh để cùng nhau nắm được tình hình trẻ khi ở nhà và ở trường. Từ sự chủ động của giáo viên giúp lôi cuốn phụ huynh vào quá trình giáo dục trẻ hơn, phụ huynh có thêm kiến thức và hiểu được tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng cho trẻ, tâm lí phụ huynh sẽ cởi mở và yên tâm hơn khi đưa trẻ đến lớp. Tạo mối quan hệ gần gũi hơn giữa phụ huynh và giáo viên. Ảnh: Phụ huynh được trực tiếp dự giờ với trẻ Qua những lẩn trao đổi trực tiếp với phụ huynh và sự thay đổi rõ rệt từ trẻ tôi thấy được phụ huynh đã biết chủ động trao đổi với giáo viên về việc giáo dục trẻ, phụ huynh dành nhiều thời gian nghiên cứu và hỗ trợ cho giáo viên nhiệt tình. Phụ huynh ngày càng tin tưởng và tích cực hỗ trợ cho cô và trẻ hơn trong các hoạt động. Trẻ trong lớp đã nắm và xử lý được các tình huống một cách tự tin, biết giữ khoảng cách với người lạ, luôn theo sát người lớn khi ra ngoài. 4. Kết quả Sau khi giáo dục trẻ “ Biện pháp giáo dục kỹ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ 5-6 tuổi tại trường mầm non” lớp tôi đã đạt được một số kết quả như sau. 4.1. Đối với giáo viên Giáo viên có thêm kinh nghiệm trong việc chăm sóc, giáo dục trẻ, đặc biệt là giáo dục kỹ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ. Từ đó tự tin, mạnh dạn hơn trong việc lựa chọn những nội dung, biện pháp mới hơn để giáo dục cho trẻ. Giáo viên ngày càng có kinh nghiệm, cởi mở hơn trong việc hướng phụ huynh vào hoạt động của mình, tạo được sự thân thiện, gần gũi với phụ huynh trong ngành giáo dục. 4.2. Đối với trẻ 100% trẻ có kiến thức để nhận biết được những mối nguy hiểm có thể xảy ra với bản thân mình hay không. 95% trẻ có hành vi phù hợp với từng hoàn cảnh thích hợp, biết tránh được những nơi, những đồ vật không an toàn cho bản thân và ngưởi khác. 100% trẻ có ý thức tốt trong việc bảo vệ bản thân khi ở nơi công cộng, luôn bình tĩnh, tự tin trong các tình huống. Trẻ hiểu và ghi nhớ nội dung và ý nghĩa của các bài thơ, bài vè, bài hát... Trẻ nhận thức rõ giới tính của bản thân, biết tôn trọng người khác, biết cách tự vệ để thoát khỏi nạn xâm hại hoặc bắt cóc. Sau khi áp dụng các biện pháp trên, tôi đã tiếp tục khảo sát trên trẻ và kết quả khảo sát như sau: Bảng kết quả khi thực hiện biện pháp TT Nội dung khảo sát Đạt Chưa đạt Số trẻ Tỉ lệ % Số trẻ Tỉ lệ % 1 Trẻ nhận biết đồ vật, tình huống nguy hiểm, không an toàn. 24 100% 0 0% 2 Trẻ có kiến thức phòng tránh mối nguy hiểm. 24 100% 0 0% 3 Có kỹ năng xử lý tình huống khi gặp vấn đề nguy hiểm. 23 95,8% 1 4,2% 4.3. Đối với phụ huynh Phụ huynh thấu hiểu được tầm quan trọng của việc giáo dục cho trẻ các kỹ năng bảo vệ bản thân, từ đó biết quan tâm đến trẻ và chủ động phối hợp với giáo viên trong tất cả các hoạt động. Tin tưởng, yên tâm hơn khi cho trẻ đến lớp học. Mối quan hệ giữa giáo viên và phụ huynh ngày càng thắt chặt hơn. III. Kết luận, kiến nghị 1. Kết luận Giáo dục kỹ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ mầm non, đặc biệt là trẻ 5-6 tuổi là việc làm vô cùng cần thiết. Không chỉ giúp trẻ có nhận thức đúng về thế giới bên ngoài, biết ứng phó kịp thời những tình huống một cách tự tin, mạnh dạn mà còn trở thành nền tảng vững chắc cho trẻ đút kết thêm được những kinh nghiệm bổ ích khi trẻ lớn hơn. Để đạt được kết quả tốt, trong quá trình thực hiện bản thân mỗi giáo viên cần Giáo viên luôn đặt cái tâm với nghề lên hàng đầu, hết lòng yêu thương trẻ như người mẹ. Bản thân luôn học hỏi chuyên môn mọi lúc mọi nơi, tìm tòi khám phá những nội dung hay, mới lạ phù hợp để giáo dục trẻ. Luôn là người bạn đồng hành với trẻ, lắng nghe trẻ để giáo dục và đánh giá khách quan những kỹ năng trẻ đã tiếp thu được, từ đó có những kế hoạch giáo dục tiếp theo một cách phù hợp. Tạo môi trường giáo dục phong phú, đẹp mắt trong và ngoài lớp nhưng gần gũi, tích cực có thể tuyên truyền được đến cho phụ huynh. Luôn có sự phối hợp, hỗ trợ chặt chẽ với nhau giữa giáo viên và phụ huynh trong việc giáo dục kỹ năng cho trẻ. 2. Kiến nghị Không có. Xác nhận của thủ trưởng đơn vị Người viết -
“Biện pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên trong trường mầm non” . TG: Trần Thị Kim Nhiên
21/05/2025I. Mở đầu 1. Lý do chọn đề tài sáng kiến Trong những năm qua Đảng và Nhà nước luôn quan tâm xây dựng, phát triển đội ngũ giáo viên theo hướng chuẩn hóa, đảm bảo đủ về số lượng, nâng cao chất lượng, đặc biệt chú trọng xây dựng bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, lương tâm nghề nghiệp và trình độ chuyên môn nghiệp vụ của giáo viên, đáp ứng nhu cầu thực tế đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hội nhập quốc tế. Đồng thời khẳng định vai trò “Quyết định chất lượng giáo dục” là của đội ngũ nhà giáo. Điều này thể hiện niềm vui, thể hiện niềm tin vừa thể hiện sự mong đợi rất nhiều từ Đảng và Nhà nước đối với đội ngũ giáo viên trong công cuộc đổi mới nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Chất lượng chuyên môn của đội ngũ giáo viên trong trường mầm non sẽ góp phần to lớn đưa lại hiệu quả cao về chất lượng trẻ, giúp trẻ phát triển toàn diện, chuẩn bị tốt tâm thế bước vào lớp một. Chính vì vậy, người giáo viên mầm non được xem là người đặt nền móng đầu tiên góp phần hình thành nhân cách ban đầu cho trẻ. Nhiệm vụ của người giáo viên mầm non hết sức nặng nề, ngoài việc truyền thụ những kiến thức, kỹ năng đơn giản ban đầu cho trẻ thì còn phải chăm sóc, nuôi dưỡng, uốn nắn và tập cho trẻ những thói quen, kỹ năng sống. Để thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ chăm sóc, giáo dục trẻ đáp ứng nhu cầu đổi mới của giáo dục hiện nay, việc dạy học giữ vai trò chủ đạo trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách của trẻ. Thông qua hoạt động dạy - học nhận thức về trí tuệ và hành vi của trẻ được phát triển. Điều này chứng tỏ việc bồi dưỡng năng lực chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ giáo viên mầm non là hết sức cần thiết. Chất lượng đội ngũ được nâng cao, tạo được niềm tin cho các bậc phụ huynh an tâm gửi con đến trường. Mục tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ vào lớp một; hình thành và phát triển ở trẻ những chức năng tâm sinh lý, năng lực và phẩm chất mang tính nền tảng, những kỹ năng sống cần thiết phù hợp với lứa tuổi, khơi dậy và phát triển tối đa những khả năng tiềm ẩn, đặt nền tảng cho việc học ở cấp học phổ thông sau này. Thực hiện mục tiêu đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, mỗi nhà giáo theo yêu cầu đổi mới không những là người giỏi về chuyên môn mà còn cần phải có năng lực sư phạm, năng lực giáo dục, phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp, tinh thần trách nhiệm,…Đồng thời có trách nhiệm cao trong việc xây dựng môi trường giáo dục cho trẻ hoạt động. Chính vì vậy việc xây dựng, bồi dưỡng và phát triển đội ngũ cho giáo viên đáp ứng yêu cầu đổi mới phát triển chất lượng giáo dục nói chung và chất lượng giáo dục mầm non nói riêng, là mục tiêu hàng đầu, là nhiệm vụ then chốt trong công cuộc đổi mới toàn diện giáo dục. Với vai trò là một cán bộ quản lý, nhận thức được vai trò của đội ngũ giáo viên đối với chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ. Làm thế nào để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện trong nhà trường, đó là thách thức đối với những người làm công tác quản lý như chúng tôi. Năm học 2023 - 2024 tôi đã nghiên cứu đề tài sáng kiến “Biện pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên trong trường mầm non” mang lại kết quả rất khả quan. Chính vì vậy tôi tiếp tục chọn nghiên cứu phát triển đề tài này trong năm học 2024 – 2025. 2. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài sáng kiến Nhằm nâng cao chất lượng chuyên môn, hiệu quả trong việc đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục. Bồi dưỡng nâng cao năng lực cho giáo viên nhằm đáp ứng đổi mới toàn diện. Nâng cao ý thức trách nhiệm, lòng say mê và tâm huyết với nghề, trao dồi phẩm chất đạo đức lối sống tốt trong nghề nghiệp của đội ngũ giáo viên. Phát triển các kỹ năng vốn có của giáo viên, đồng thời giúp giáo viên cải thiện những hạn chế của bản thân trong công tác. Đảm bảo nâng cao chất lượng chăm sóc và giáo dục trẻ trong nhà trường theo yêu cầu “Đổi mới căn bản và toàn diện” giúp trẻ phát triển một cách toàn diện. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Để thực hiện được đề tài bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên trong trường mầm non, tôi đã tiến hành nghiên cứu trên 14 giáo viên và 163 học sinh độ tuổi khác nhau trong Trường Mầm non Rạng Đông. Nội dung nghiên cứu được trải nghiệm trong quá trình chăm sóc giáo dục trẻ. Góp phần nâng cao tay nghề của giáo viên đồng thời tìm ra những giải pháp khắc phục những khó khăn, hạn chế của giáo viên trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ trong nhà trường. II. NỘI DUNG 1. Cơ sở lý luận Giáo dục mầm non đã có nhiều chuyển đổi trong cách nghĩ, cách làm mạnh dạn bỏ đi những gì không phù hợp, tiến hành đổi mới hoàn toàn các mặt mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức môi trường hoạt động và cách đánh giá chất lượng giáo dục. Chúng ta đã khẳng định rằng bậc học mầm non tạo nền tảng cho ban đầu cho quá trình đào tạo và phát triển con người toàn diện, nhằm đáp ứng yêu ngày càng cao của xã hội. Nghị quyết 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã nhấn mạnh mục tiêu nâng cao chất lượng giáo tập trung phát triển trí tuệ, phẩm chất, năng lực người học. Vì vậy việc bồi dưỡng giáo viên được xác định là nhiệm vụ then chốt nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo. Hiện nay, công tác bồi dưỡng này hiện vẫn còn tồn tại nhiều bất cập và thách thức. Thời gian qua bậc học mầm non cũng đã có nhiều đóng góp và có tinh thần trách nhiệm cao trong công tác “Ươm mầm xanh” cho đất nước, nhằm đáp ứng đổi mới căn bản phù hợp với xã hội phát triển không chỉ dừng lại bằng lòng với những kết quả đã đạt được để thực hiện mục tiêu đổi mới chúng ta cần bắt đầu vào việc nâng cao chất lượng hoạt động trong nhà trường mà nòng cốt là đội ngũ nhà giáo. Vì vậy, công tác bồi dưỡng giáo viên luôn được quan tâm trong công cuộc xây dựng và phát triển trường. Để có được đội ngũ giáo viên mầm non có đạo đức, tâm huyết với nghề, có tinh thần cầu tiến, có năng lực sư phạm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của công tác chăm sóc giáo dục trẻ, góp phần nâng cao vị thế của giáo dục mầm non. Thì công tác bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ của giáo viên mầm non là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu mà những người cán bộ quản lý cần phải quan tâm. 2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu Trường Mầm non Rạng Đông thuộc xã biên giới Mỹ Quý Đông, huyện Đức Huệ, nhiệm vụ trọng tâm của nhà trường là nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ trong độ tuổi mẫu giáo. Tập thể nhà giáo đã không ngừng phấn đấu từng bước nâng cao chất lượng hoạt động của nhà trường. Năm học 2024 - 2025 toàn trường có 163 trẻ/7 lớp Trong đó: Lớp Mầm: 22 trẻ/1 lớp; Lớp Chồi: 76 trẻ/3 lớp; Lớp Lá: 65 trẻ/3 lớp * Thuận lợi Nhà trường luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo của Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Đức Huệ, cấp ủy, chính quyền địa phương đã tạo điều kiện giúp đỡ, động viên về tinh thần, vật chất, đặc biệt luôn nhận được sự quan tâm, đồng thuận của Ban đại diện cha mẹ trẻ em đã góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của nhà trường. Trường có 13/13 giáo viên trình độ có trình độ đạt chuẩn, trong đó có 11 giáo viên trình độ Đại học. Đội ngũ giáo viên trẻ, khỏe, nhiệt tình, tâm huyết với nghề, tích cực tham gia các hoạt động của nhà trường. Giáo viên trẻ tiếp cận cái mới nhanh, có khả năng ứng dụng công nghệ thông tin vào trong tổ chức hoạt động cho trẻ. Nhà trường có Ban giám hiệu đều trẻ tuổi, có sức khỏe và chuyên môn nghiệp vụ khá vững vàng, nhiệt tình, năng động và có kế hoạch chỉ đạo các hoạt động của nhà trường một cách khoa học. * Khó khăn Năng lực chuyên môn của giáo viên không đồng đều, năm 2024 trường tiếp nhận 02 giáo viên mới tuyển dụng thiếu kinh nghiệm trong giảng dạy, thiếu sự linh hoạt khi lựa chọn nội dung, thiết kế hoạt động theo hướng lấy trẻ làm trung tâm. Nhiều giáo viên đang độ tuổi sinh đẻ, nuôi con nhỏ cũng ảnh hưởng đến việc tự học tập nâng cao năng lực của bản thân. Việc xây dựng môi trường học tập trong và ngoài lớp học của giáo viên còn hạn chế, chưa theo hướng mở tạo cơ hội cho trẻ hoạt động. Nhà trường còn thiếu các phòng chức năng và khối phòng hành chính. * Về đội ngũ giáo viên Đến tháng 12/2024 trường tiếp nhận 02 giáo viên mới tuyển dụng, toàn trường có 13 giáo viên, giáo viên đạt trình độ Đại học 11/13 tỷ lệ 84,61%. Ngoại ngữ trình độ B 13/13 tỷ lệ 100%; tin học trình độ A 13/13 tỷ lệ 100%. * Về cơ sở vật chất Trường có 3 điểm: 01 điểm chính và 2 phân hiệu Toàn trường có 02 phòng làm việc chung cho Ban giám hiệu và nhân viên. Có 03 sân chơi: Có mái che mát, có đồ chơi ngoài trời. Có 01 bếp ăn thực hiện theo quy tắc 1 chiều. Bàn, ghế học sinh và các thiết bị, đồ dùng đồ chơi đủ cho trẻ hoạt động. * Kết quả khảo sát đánh giá Để giáo viên được trải nghiệm giáo dục trẻ ở nhiều độ tuổi khác nhau, năm học 2024 - 2025 tôi phân công thay đổi giáo viên ở các lớp. Đồng thờ tôi luôn theo dõi, tìm hiểu và đánh giá chất lượng đội ngũ giáo viên của trường mình, tìm ra các giải pháp tốt nhất để nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên. Để làm được điều đó trước tiên tôi xây dựng nội dung khảo sát nhằm có được con số chính xác để tìm giải pháp, biện pháp phù hợp nhất bồi dưỡng cho đội ngũ giáo viên trường mình. Khảo sát chất lượng giáo viên trước khi thực hiện đề tài ( số lượng 11 giáo viên) STT Nội dung Tốt Khá Trung bình Số GV Tỷ lệ % Số GV Tỷ lệ % Số GV Tỷ lệ % 1 Nắm vững chương trình chăm sóc, giáo dục trẻ theo độ tuổi 5 4 2 2 Hình thức tổ chức các hoạt động linh hoạt, sáng tạo 4 5 2 3 Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy và học 5 4 2 4 Tạo môi trường hoạt động cho trẻ phong phú, hấp dẫn thiết kế theo hướng mở thu hút trẻ. 4 4 3 5 Tự tin khi lên lớp 4 4 3 Khảo sát chất lượng trẻ trước khi thực hiện đề tài ( số lượng 163 trẻ) STT Nội dung Số trẻ đạt Tỷ lệ % Số trẻ chưa đạt Tỷ lệ % 1 Trẻ nắm vững kiến thức, kỹ năng vận dụng linh hoạt, sáng tạo trong các hoạt động 87 76 2 Trẻ hứng thú tham gia các hoạt động 90 73 3 Trẻ mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp với người lớn 85 78 3. Các giải pháp 3.1. Bồi dưỡng về ý thức trách nhiệm phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp cho giáo viên trong công tác chăm sóc, giáo dục trẻ. Giáo viên mầm non được ví như người mẹ hiền thứ hai của trẻ, và đây cũng là lực lượng quyết định chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ trong trường mầm non. Chính vì thế, việc bồi dưỡng ý thức trách nhiệm, đạo đức lối sống, sự tâm huyết cho đội ngũ giáo viên là một việc làm rất quan trọng và cần thiết bỡi lẽ: phẩm chất chính trị có vững vàng, tư tưởng chính trị có tốt thì người giáo viên mới “yêu nghề, mến trẻ”, tận tụy với công việc, yên tâm công tác. Đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ giáo viên có tốt thì hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ trong trường mầm non mới giỏi. Lòng yêu nghề, tinh thần trách nhiệm giúp cho người giáo viên gắn bó với trẻ, điều đó biểu hiện ở lòng nhân hậu, vị tha, công bằng, tế nhị và chu đáo, quan tâm để ý từng thay đổi nhỏ của trẻ. Giáo viên phải tỉ mỉ để phát hiện ra những nhu cầu của cá nhân trẻ ở mọi lúc mọi nơi, điều đó thể hiện sự gần gũi mà ở bậc học khác không thể có được. Để mỗi giáo viên phải luôn giữ lập trường tư tưởng vững vàng, ý chí phấn đấu vươn lên, gương mẫu trong công tác, có tinh thần trách nhiệm hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Tôi đã chỉ đạo bộ phận chuyên môn lựa chọn và đưa nội dung bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, tinh thần trách nhiệm vào trong kế hoạch bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên và đây cũng là nội dung thường xuyên được quán triệt trong các kỳ họp Chi bộ nhà trường. (Hình ảnh hội nghị của Chi bộ) Quán triệt giáo viên tự xác định cho mình các tiêu chí trên tất cả các mặt trong đó có các tiêu chí về phẩm chất chính trị, trách nhiệm với công việc, đạo đức nghề nghiệp vào trong bản cam kết tu dưỡng rèn luyện để phấn đấu hoàn thiện bản thân. Ví dụ: Trong bản cam kết tu dưỡng rèn luyện hàng năm gợi ý giáo viên chọn nội dung để học tập và làm theo Bác, đồng thời được đánh giá kết quả thực hiện thường xuyên trong các kỳ hội nghị sơ kết, tổng kết. Hàng năm rà soát hoàn thiện lại Bộ quy tắc ứng xử và triển khai thực hiện trong đơn vị, đưa các tiêu chí này vào trong bình xét thi đua của năm. Tổ chức họp hội đồng định kỳ hàng tháng có nội dung học tập, triển khai đầy đủ mọi Thông tư, Chỉ thị, Quyết định của ngành và cấp trên. Triển khai các yêu cầu của chuẩn nghề nghiệp giáo viên mầm non, Điều lệ trường mầm non, nhấn mạnh vai trò, trách nhiệm của người giáo viên mầm non, đặc biệt chú ý đến vấn đề vi phạm đạo đức nhà giáo....thông qua đó nhằm nâng cao nhận thức chính trị cho đội ngũ cán bộ giáo viên. Ngoài ra tôi còn chỉ đạo thực hiện Mô hình “Phiên chợ gắn kết yêu thương” gây quỹ giúp đỡ trẻ em có hoàn cảnh khó khăn được đến trường, mô hình này được duy trì được bốn năm, mô hình ngày càng lớn mạnh là nhờ vào sự cố gắng của các cô đã kêu gọi được sự đồng tình ủng hộ của các đơn vị kết nghĩa, qua đây tăng sự gắn kết của các cô giáo và tình thương của cô đối với trẻ và trẻ cũng cảm thấy mình được các cô yêu thương. (Hình ảnh ủng hộ tổ chức phiên chợ gắn kết yêu thương) (Hình ảnh trẻ được yêu thương từ phiên chợ kết nối yêu thương) Điểm mới của giải pháp: Hiện nay chủ trương xác nhập cấp tỉnh, cấp xã. Các trang mạng xã hội có rất nhiều nguồn thông tin khác nhau cũng làm cho tư tưởng của giáo viên ít nhiều bị giao động. Vấn đề được đặt ra ở đây là tình hình tư tưởng của giáo viên. Người cán bộ quản lý phải biết cách nắm bắt thông tin từ giáo viên, thường xuyên quan tâm, trò chuyện với giáo viên, giải tỏa kịp thời những điều giáo viên quan tâm, lo lắng từ các nguồn tin không chính thống. Qua đó nắm được suy nghĩ của giáo viên, có giải pháp chấn chỉnh những suy nghĩ sai dẫn đến phát ngôn tuyên truyền sai, làm chùn bước đến giáo viên khác. Thường xuyên chia sẻ lên nhóm Zalo của trường hình ảnh, các bài viết về các hoạt động hay mang lại hiệu quả thiết thực trong công tác dạy và học, công tác phong trào của đơn vị khác để các cô xem và có suy nghĩ tích cực hơn trong giai đoạn hiện nay. Phát động nhiều hội thi cho các cô và trẻ tham gia. Thực hiện mô hình bữa ăn sáng 00 đồng cho trẻ thu hút các cô chung tay thực hiện, qua đây sự yêu thương được lan tỏa, niềm vui được nhân đôi, tinh thần phấn khởi trước sự đồng tình ủng hộ của các đơn vị kết nghĩa trong và ngoài địa bàn cũng xua đi nỗi lo lắng của các cô. 3.2. Xây dựng môi trường học tập trong và ngoài lớp Môi trường giáo dục trong trường mầm non rất quan trọng đối với sự phát triển của trẻ. Hiểu được ý nghĩa và tầm quan trọng của việc xây dựng môi trường học tập cho trẻ, tôi đã xây dựng kế hoạch số 211/KH-MNRĐ ngày 5/10/2024 của trường Mầm non Rạng Đông về xây dựng trường học xanh sạch đẹp an toàn triển khai thực hiện trong toàn trường. Bồi dưỡng cho giáo viên nắm bắt kịp thời các nguyên tắc và tầm quan trọng của việc xây dựng môi trường học tập trong và ngoài lớp học cho trẻ theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm, đồng thời tiếp cận trang trí môi trường giáo dục STEM, giáo viên cùng nhau trao đổi, thảo luận tìm ra các giải pháp, cách thức, hình thức trang trí phù hợp theo đặc điểm của trẻ và điều kiện thực tế của lớp, của trường để có được môi trường học tập phong phú và sáng tạo cho trẻ hoạt động. Điểm mới của đề tài mà tôi nghiên cứu muốn đề cập đến đó là lấy trẻ làm trung tâm tạo môi trường ở góc mở ở các góc trong và ngoài lớp học cho trẻ hoạt động trong các giờ học cũng như giờ chơi tận dụng tối đa sản phẩm của trẻ huy động phụ huynh tìm kiếm nguyên vật liệu đồ dùng đồ chơi giáo viên phải xây dựng nội dung giờ học tập giờ làm đồ dùng đồ chơi ở các góc phù hợp với chủ đề mặt khác xây dựng môi trường góc mở cho trẻ hoạt động có nghĩa là giáo viên chỉ là người chuẩn bị các nguyên liệu ở các góc mà mình mở. Ở các góc mở mà mình đã thiết kế và trang trí giáo viên chỉ là người gợi ý hướng dẫn trẻ sẽ là người hoạt động chơi. * Môi trường học tập trong lớp học Trẻ mầm non luôn yêu thích cái đẹp, cái mới lạ, để lớp học thêm thu hút, hấp dẫn trẻ tôi hướng dẫn, gợi ý cho các cô trang trí kết hợp theo hướng STEM, giáo viên trang trí môi trường trong lớp với những hình ảnh, màu sắc sinh động, hài hòa, ngộ nghĩnh theo hướng mở, lắp ghép dễ dàng thay đổi hình ảnh cho phù hợp với chủ đề. (Hình ảnh các góc giáo dục trong lớp học) Bố trí các góc chơi hợp lý, góc ồn ào xa góc yên tĩnh, góc thư viện cần nhiều ánh sáng, góc bé tập làm nội trợ gần cửa ra vào, nhóm góc phân vai được bố trí gần nhau cho trẻ dễ dàng liên kết các góc chơi. ( Hình ảnh cách bố trí các góc chơi trong lớp học) Khuyến khích giáo viên tận dụng các nguồn nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương để trang trí lớp, đặc biệt là nguồn nguyên liệu tự nhiên và giấy thùng, vỏ chai nhựa,… để làm đồ dùng đồ chơi trưng bày bán ở góc siêu thị của bé. (Hình ảnh minh họa cho các góc chơi trong lớp) Đồ dùng đồ chơi, các nguyên liệu để tạo ra sản phẩm đóng vai trò không nhỏ trong quá trình học và chơi của trẻ. Cách sắp xếp gọn gàng, đẹp mắt cũng thu hút trẻ đến chơi. Các góc mở trong lớp giúp trẻ biết phối hợp nhiều nguyên liệu khác nhau tạo ra sản phẩm. Từ các dụng cụ cô sắp xếp sẵn trẻ có thể sử dụng bằng nhiều tình thức khác nhau theo ý của trẻ. (Hình ảnh bố trí, sắp xếp đồ dùng đồ chơi ở các góc) (Hình ảnh các góc mở trong lớp) * Môi trường học tập bên ngoài lớp học Môi trường học tập ngoài lớp học giúp trẻ hình thành các kỹ năng thực hành, phát triển các kỹ năng giao tiếp, ứng xử, kỹ năng hoạt động nhóm góp phần hình thành và phát triển nhân cách sau này cho trẻ. Trẻ được thỏa sức vui chơi, khám phá môi trường xã hội, trẻ được hòa mình vào thiên nhiên, thỏa mãn nhu cầu hoạt động của trẻ với phương châm “Học bằng chơi, chơi mà học”. Trong khuôn viên trường được bố trí sắp xếp rất nhiều khu vui chơi, sinh hoạt và học tập cho trẻ, ở các khu đều được trang bị dụng cụ, cho trẻ hoạt động Sân tập thể dục cho trẻ: nền sân được lát gạch vỉa hè chống trơn trượt khi trẻ vận động, có trang bị loa kéo phát bài hát, vòng, gậy,... cho trẻ tập. (Sân tập thể dục cho trẻ) Khu phát triển vận động: Tăng cường trang bị các đồ chơi hiện đại, sắp xếp hợp lý, chỉ đạo phó hiệu trưởng thường xuyên kiểm tra các đồ chơi ngoài trời và có kế hoạch tham mưu hiệu trưởng sửa chữa, thanh lý kịp thời, có cây xanh, mái che mát, trải cỏ đảm bảo an toàn cho trẻ vận động thỏa thích. ( Khu phát triển vận động cho trẻ) Sân bóng min ni, sân bóng rổ được thiết kế rộng rãi thoáng mát, có trải cỏ an toàn cho trẻ khi chơi, vườn cổ tích từng bước được xây dựng khang trang sạch đẹp, từng bước được thiết kế hiện đại hơn. (Hình ảnh Vườn cổ tích được cải thiện hiện đại hơn) (Hình ảnh sân bóng mini của trẻ) Khu chợ quê được bố trí lại ở vị trí thuận lợi cho trẻ hoạt động hơn, nhiều gian hàng được làm chắc chắn hơn, Các cô đã nhiều nguyên vật liệu như giấy thùng, vỏ hộp, chai nhựa để làm đồ chơi trưng bày cho các cửa hàng. (Hình ảnh khu chợ quê của bé) Khu vực cho trẻ trải nghiệm vui nhất là vườn rau của bé, các cháu được trồng, chăm sóc, thu hoạch rau cùng cô. (Hình ảnh vườn rau của bé) Có thể nói việc xây dựng môi trường giáo dục ở trường mầm non theo quan điểm “Lấy trẻ làm trung tâm” là thực sự cần thiết và rất quan trọng, thông qua đó hình thành cho trẻ một số kỹ năng cần thiết, tư duy phát triển, thỏa mãn nhu cầu nhận thức, mở rộng hiểu biết của trẻ, kích thích trẻ hoạt động tích cực, sáng tạo. (Hình ảnh góc vui sáng tạo cho trẻ) Các góc mở được chuẩn bị nhiều nguyên vật liệu khác nhau, theo sự gợi ý của cô trẻ được tự chon nguyên liệu và làm ra sản phẩm theo ý mình, với nguồn nguyên liệu tự nhiên gần gủi xung quanh trẻ rất dễ thu hút trẻ thao tác sáng tạo (Hình ảnh góc mở ngoài lớp học) Cảnh quan môi trường được trang trí đẹp, trẻ được hoạt động thoải mái, được trải nghiệm, được khám phá,…sẽ mang lại nhiều kết quả tốt. Môi trường được trang trí có thẩm mỹ, khoa học phụ huynh nhìn vào càng tin tưởng vào đội ngũ giáo viên, đặc biệt tạo được sự phối hợp nhiệt tình giữa phụ huynh với nhà trường, từ đó chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ sẽ thay đổi rõ nét, đảm bảo được sự phát triển toàn diện theo yêu cầu đổi mới, uy tín của nhà trường sẽ được nâng lên tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện xã hội hóa giáo dục. ( Góc thiên nhiên của lớp) 3.3. Đổi mới hình thức, phương pháp tổ chức hoạt động giáo dục lấy trẻ làm trung tâm. Giáo dục trẻ mầm non với quan điểm giáo dục “Học bằng chơi, chơi mà học” quan điểm đó ngày xưa đối với giáo viên mầm non nó chưa đúng hoàn toàn bởi việc dạy trẻ theo phương pháp cũ cô giáo là trung tâm, sẽ nói cho trẻ biết những điều mà trẻ chưa biết, sẵn sàng giải thích giúp đỡ trẻ khi trẻ mới bắt đầu làm và điều đặc biệt trẻ ít khi được khám phá, trải nghiệm trên các hoạt động, nhưng để đáp ứng với sự đổi mới và sự phát triển của xã hội, đòi hỏi cá nhân phải là chủ thể trong các hoạt động vậy nên phương pháp “giáo dục lấy trẻ làm trung tâm” sẽ giúp trẻ được tìm tòi khám phá, trải nghiệm để phát triển toàn diện hơn, muốn làm được điều này đòi hỏi đội ngũ giáo viên phải linh hoạt trong các hoạt động, sáng tạo trong cách tổ chức, biết tạo ra cơ hội để trẻ được thể hiện, đặc biệt giáo viên phải biết trăn trở, linh hoạt, sáng tạo tìm kiếm và xây dựng kế hoạch cho trẻ thực hiện với mục tiêu “tất cả hướng về trẻ”, để giúp giáo viên có nhận thức đúng đắn về vấn đề này tôi đã sử dụng các giải pháp sau: Bồi dưỡng về lý thuyết. Bồi dưỡng bằng cách tổ chức riêng về chuyên đề “giáo dục lấy trẻ làm trung tâm”. Chỉ đạo phó hiệu trưởng phụ trách chuyên môn soạn nội dung chuyên đề, Ban giám hiệu cùng thảo luận góp ý hoàn chỉnh những vấn đề cốt lõi, trọng tâm, chuyển văn bản cho giáo viên nghiên cứu trước và tổ chức buổi tập huấn cho các cô dưới hình thức tương tác với nhau. (Hình ảnh tập huấn, bồi dưỡng chuyên đề cho giáo viên) Qua thực hành, tổ chức chuyên đề bằng dạy mẫu và thảo luận đánh giá nhận xét giờ dạy giúp giáo viên tìm ra phương pháp “giáo dục lấy trẻ làm trung tâm”, trong quá trình tổ chức hoạt động, cách thức tổ chức, cách xây dựng hệ thống câu hỏi, sử dụng hệ thống câu hỏi như thế nào được gọi là “câu hỏi mở”. Từ đó giúp giáo viên biết được cụ thể cái mới, trẻ là trung tâm ở những nội dung nào. Chỉ đạo các phó hiệu trưởng, tổ trưởng chuyên môn bồi dưỡng các chuyên đề này qua các buổi sinh hoạt, qua kiểm tra theo dõi giáo viên hàng ngày trên thực tế của cô và hoạt động của trẻ, sau khi kiểm tra theo dõi tiếp tục có kế hoạch bồi dưỡng cho giáo viên còn nhiều hạn chế. Phân công giáo viên có năng lực chuyên môn giỏi đứng lớp cùng giáo viên yếu chuyên môn để bồi dưỡng cho giáo viên hàng ngày qua việc hợp tác thực hiện công tác chuyên môn. Chỉ đạo cho những giáo viên còn yếu chuyên môn xây dựng kế hoạch tự bồi dưỡng các mặt còn yếu đã được chỉ ra, sau đó Ban giám hiệu duyệt kế hoạch và phân công hiệu phó chuyên môn phối hợp với tổ trưởng cùng theo dõi và đánh giá kết quả tự bồi dưỡng của giáo viên hàng tháng. - Chỉ đạo giáo viên thiết kế sắp xếp, trang trí môi trường sư phạm giáo dục trong lớp, ngoài trời theo hướng mở, nhằm phát huy tối đa sự sáng tạo cho trẻ. - Đổi mới hình thức tổ chức trong các hoạt động, chú trọng việc lồng ghép nội dung giáo dục văn hoá truyền thống, giáo dục kỹ năng sống vào các hoạt động giáo dục phù hợp với độ tuổi và điều kiện của lớp. - Đối với trẻ không chỉ được cung cấp kiến thức, kỹ năng khi tham gia học tập trong lớp, các hoạt động chơi tập ngoài tời cũng cần được chú trọng. Môi trường ngoài lớp học đã được xây dựng, giáo viên cần chủ động thiết kế các hoạt động theo hướng mở để trẻ được thể hiện. (Các góc chơi ngoài trời cho trẻ thực hành, sáng tạo) Tạo điều kiện cho giáo viên được giao lưu, học tập, chia sẻ kinh nghiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn với các đơn vị trường bạn. Ban giám hiệu tăng cường công tác kiểm tra giám sát bộ phận chuyên môn trong việc bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên, công tác tự bồi dưỡng của giáo viên, đánh giá việc thực hiện chuyên đề để đưa ra giải pháp khắc phục kịp thời những khó khăn vướng mắc khi thực hiện. 3.4. Đổi mới, nâng cao chất lượng sinh hoạt tổ chuyên môn. Hiện nay, việc đổi mới phương pháp giảng dạy, nâng cao chất lượng giáo dục đang được nhà trường thực hiện một cách thường xuyên, liên tục, đòi hỏi giáo viên phải thường xuyên học hỏi, nâng cao năng lực chuyên môn, kỹ năng xử lý các tình huống sư phạm. Trong các hoạt động của nhà trường, hoạt động sinh hoạt tổ chuyên môn có vai trò rất quan trọng trong việc triển khai, thực hiện các nhiệm vụ giáo dục của nhà trường. Nếu chỉ đạo tốt đổi mới nội dung, hình thức sinh hoạt thì tổ chuyên môn sẽ là môi trường tốt cho giáo viên học hỏi, chia sẽ, trao đổi những vướng mắc trong chuyên môn, đồng thời cũng là nơi để giáo viên chia sẽ những kinh nghiệm trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ, học tập lẫn nhau cùng nhau tiến bộ. Để buổi sinh hoạt chuyên môn có chất lượng thì tổ trưởng chuyên môn phải bàn bạc, thống nhất chuẩn bị kỹ nội dung làm việc trước các buổi sinh hoạt chuyên môn trong tháng. Cần tham khảo thêm ý kiến chỉ đạo của phó hiệu trưởng phụ trách chuyên môn, tập trung đi sâu vào những vấn đề mới để tạo hứng thú cho giáo viên. Bồi dưỡng cho tổ trưởng nắm vững hơn cách tổ chức chỉ đạo sinh hoạt chuyên môn theo hình thức đổi mới, tôi cùng hiệu phó phụ trách chuyên môn tổ chức buổi sinh hoạt chuyên môn làm mẫu. Trong buổi sinh hoạt chuyên môn này tổ trưởng không đọc cho giáo viên chép mà đưa ra các câu hỏi cho giáo viên suy nghĩ và trả lời. Yêu cầu tất cả các đồng chí giáo viên trong tổ suy nghĩ và đưa ra ý kiến cá nhân. (Hình ảnh họp tổ chuyên môn của giáo viên) Người điều hành buổi sinh hoạt chuyên môn có thể ứng dụng công nghệ thông tin, trình chiếu, chia sẻ những cách làm hay, những nội dung mới cho giáo viên trong tổ cùng nhau trao đổi, thảo luận và đưa ra ý kiến. Qua mỗi buổi sinh hoạt chuyên môn như vậy, giáo viên được trình bày quan điểm cá nhân và khắc sâu hơn những kiến thức cần thiết. (Hình ảnh ứng dụng công nghệ thông tin trong họp tổ chuyên môn) Cần phải giúp giáo viên nhận thức sâu sắc về sự cấn thiết của các buổi sinh hoạt chuyên môn. Coi đây là quyền lợi, là nghĩa vụ mà mỗi người giáo viên cần phải làm tốt để đáp ứng được đòi hỏi của công tác giáo dục ngày càng cao. Chỉ đạo các tổ trưởng xây dựng kế hoạch dự giờ có phê duyệt của Ban giám hiệu, các thành viên trong tổ chuyên môn sau khi dự giờ xong, tổ chức rút kinh nghiệm một cách tỉ mỉ, cụ thể về cách tổ chức, hình thức lên lớp, giáo viên đã tổ chức tiết học như thế nào? nhận xét cần đi sâu vào các phương pháp, kiến thức chuyên môn trên tinh thần tôn trọng, giúp nhau đổi mới mang lại hiệu quả cao trong giảng dạy, tránh định kiến cá nhân, phê bình, góp ý những vấn đề thiếu sót vụn vặt, mà không nhìn thấy những cố gắng tốt, hiệu quả thiết thực trong giáo viên dạy đã sử dụng truyền đạt, cần tìm ra những kinh nghiệm tốt để tuyên dương điển hình nhân rộng. Với cách tổ chức sinh hoạt chuyên môn như trên giáo viên vừa được rút kinh nghiệm vừa được đưa ra những ý tưởng mới lạ kích thích trẻ tham gia hoạt động đạt hiệu quả. Ví dụ: Tôi luôn bố trí các phó hiệu trưởng tham gia sinh hoạt chuyên môn chung với các tổ chyên môn, qua đó kiểm tra đánh giá hoạt động chuyên môn của các tổ chuyên môn một cách thường xuyên, nắm được những thông tin cơ bản về thực trạng hoạt động của các tổ chuyên môn. Từ đó sẽ có những chỉ đạo kịp thời, kịp thời uốn nắn những lệch lạc, khuyến khích hỗ trợ những sáng kiến hay, bảo đảm thực hiện tốt mục tiêu giáo dục đã đề ra. Sự phối kết hợp nhịp nhàng, đồng thuận và thống nhất trong chuyên môn giữa nhà trường với các tổ trưởng và giáo viên có hiệu quả trong việc nâng cao chất lượng sinh hoạt chuyên môn với mục đích cuối cùng là trẻ được giáo dục một cách tốt nhất và đạt mục tiêu giáo dục trong chương trình giáo dục mầm non hiện nay. 3.5. Bồi dưỡng năng lực chuyên môn cho giáo viên 3.5.1.Tăng cường công tác kiểm tra, dự giờ thăm lớp Công tác dự giờ, thăm lớp là hoạt động chuyên môn thường xuyên của tổ chuyên môn và mỗi cá nhân nhằm: Tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên làm sâu sắc, phong phú thêm nội dung giảng dạy, đổi mới phương pháp, tăng cường trao đổi kinh nghiệm, học tập, giúp đỡ lẫn nhau trong việc nâng cao trình độ chuyên môn, tình cảm và trách nhiệm nghề nghiệp. Ngoài việc nắm vững kiến thức chuyên môn trên lý thuyết thì vấn đề về kỹ năng sư phạm lại rất cần thiết bởi qua đây giáo viên thực hiện trực tiếp truyền tải kiến thức bằng điệu bộ, cử chỉ, ánh mắt, các kỹ năng về tổ chức thu hút trẻ tham gia tích cực vào các hoạt động sẽ đem lại hiệu quả cao cho giờ học. Chính vì vậy qua tổ chức dự giờ thăm lớp sẽ giúp giáo viên có thêm kinh nghiệm sau khi được góp ý bồi dưỡng của người dự giờ, đồng thời giáo viên cũng sẽ tự nhận ra những điểm hạn chế và những tồn tại của mình trong giờ dạy, bên cạnh đó giáo viên sẽ có được kỹ năng lên lớp, mạnh dạn, tự tin hơn trong các giờ dạy tiếp theo. (Hoạt động dự giờ của giáo viên) Đầu tháng bộ phận chuyên môn xây dựng kế hoạch cụ thể cho việc dự giờ thăm lớp, xây dựng các tiêu chí kỹ năng sư phạm để đối chiếu góp ý xây dựng cho giáo viên đạt hiệu quả hơn. Ví dụ: Xây dựng các kỹ năng: Kỹ năng nói truyền đạt cho trẻ; kỹ năng về phong cách, điệu bộ, cử chỉ; kỹ năng gây hứng thú thu hút trẻ; kỹ năng xử lý tình huống; kỹ năng sáng tạo; kỹ năng tổ chức các hình thức phong phú;… Ban giám hiệu nắm bắt kịp thời năng lực của từng giáo viên thông qua hoạt động kiểm tra, dự giờ, thăm lớp, qua đó có các giải pháp phát huy những điểm mạnh, bồi dưỡng những hạn chế cho đội ngũ nhằm nâng cao chất lượng cho đội ngũ giáo viên trong nhà trường. Câu nói của người xưa “ Học thầy không tày học bạn” qua các đợt sinh hoạt chuyên môn cụm tôi luôn tạo điều kiện cho giáo viên được tham gia dự giờ, học hỏi kinh nghiệm của giáo viên trường bạn những cái hay, sáng tạo để bồi dưỡng thêm cho trường mình. Ví dụ: Năm học 2024- 2025 tôi chọn cử giáo viên tham gia sinh hoạt chuyên môn các trường bạn trong huyện, qua các buổi tham quan, sinh hoạt đều quay video lại về tổ chức phát lại cho giáo viên toàn trường xem thảo luận rút kinh nghiệm. Thực hiện tốt công tác dự giờ thăm lớp tôi nhận thấy sự thay đổi rõ nét về chuyên môn của trường. Giáo viên thể hiện được năng lực chuyên môn, kỹ năng sư phạm của các cô thực sự ngày một nâng cao. Các hoạt động lồng ghép nội dung giáo dục, tích hợp nhiều lĩnh vực đặc biệt là các chuyên đề phù hợp với từng độ tuổi, kỹ năng, năng lực chuyên môn của giáo viên được khẳng định, kết quả trẻ đạt rất cao. Để làm tốt trong công tác bồi dưỡng đội ngũ giáo viên trong nhà trường không thể lơ là trong trong tác kiểm tra, đánh giá việc thực hiện các hoạt động của giáo viên. Trong công tác kiểm tra đảm bảo tính khách quan và công khai, công bằng và dân chủ. Sau kiểm tra phải có những nhận xét đánh giá chính xác, phân tích các ưu điểm, tồn tại của giáo viên để giúp họ phát huy những mặt mạnh, khắc phục những hạn chế áp dụng vào thực tế chăm sóc giáo dục trẻ. 3.5.2. Bồi dưỡng thông qua tổ chức các hội thi. Tổ chức các Hội thi cho giáo viên là một giải pháp bồi dưỡng nâng cao năng lực chuyên môn, kỹ năng sư phạm, tạo cơ hội để giáo viên được nghiên cứu, được sáng tạo, được học tập kinh nghiệm. Vì khi tham gia hội đòi hỏi giáo viên phải đầu tư công sức, nghiên cứu nội dung chương trình, tìm ra hình thức, phương pháp linh hoạt, sáng tạo để thu hút sự hứng thú của trẻ khi tham gia vào các hoạt động. Đồng thời, giáo viên phải tự nghiên cứu, sưu tầm các phương tiện, sáng tạo đồ dùng đồ chơi phục vụ cho hoạt động dự thi tạo sự mạnh dạn tự tin vượt qua chính mình tham gia tốt các hội thi. Qua các Hội thi tôi đều ghi lại hình ảnh các hoạt động được các cô thiết kế, tổ chức sáng tạo, hiệu quả giáo dục cao gửi lên nhóm Zalo của trường để tất cả giáo viên được xem và được diễn tả lại trong các kỳ sinh hoạt chuyên môn. (Hình ảnh giáo viên thi đua dạy tốt) Phong trào thi đua dạy tốt lập thành tích chào mừng Ngày Nhà giáo Việt Nam có 09/11giáo viên tham gia đạt 7 giáo viên tỷ lệ 77.77% (Hình ảnh minh họa dự thi cấp huyện) Tham gia Hội thi “Thiết kế hoạt động lấy trẻ làm trung tâm” cấp huyện với sự quyết tâm phấn đấu, không ngừng sáng tạo, tự tin lên lớp, kết quả đạt trường có 03 giáo viên dự thi đạt 3/3 giáo viên tỷ lệ 100%. (Hình ảnh Hội thi “Bé với an toàn giao thông) Tổ chức Hội Thi “Bé với an toàn giao thông” cấp trường nhằm tổng kết Chương trình “Tôi yêu Việt Nam”, qua đó nâng cao khả năng sáng tạo, biên đạo của các cô. Qua kết quả trên cho thấy năng lực chuyên môn của giáo viên đang phát triển tốt. Không chỉ chú trọng về chuyên môn tôi đã chủ động tổ chức các hội thi cho giáo viên nhằm bổ trợ cho việc nâng cao chất lượng chuyên môn của giáo viên như: Hội thi “ Xây dựng môi trường giáo dục an toàn, thân thiện theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm”, Hội thi “Đồ dùng đồ chơi sáng tạo” cấp trường, qua hội thi này giáo viên phát huy được kỹ năng sáng tạo, kỹ năng khai thác sử dụng đồ dùng đồ chơi, thiết bị dạy học linh hoạt, hiệu quả. Đồ dùng đồ chơi sáng tạo góp phần phong phú hơn bài dạy của giáo viên, trẻ được khám phá trải nghiệm thao tác với đồ dùng tư duy của trẻ phát triển nhanh hơn. ( Hình ảnh hội thi “Đồ dùng Đồ chơi sáng tạo) 3.6. Xây dựng tập thể sư phạm đoàn kết Đoàn kết là chìa khóa của thành công, một tập thể đoàn kết thân ái luôn là tập thể mạnh, sự nhất trí của một tập thể sư phạm là yếu tố quyết định thành công của nhà trường. Do đó, muốn xây dựng tập thể đoàn kết thì mỗi cán bộ quản lý phải là trung tâm xây dựng khối đoàn kết trong nhà trường. Là người đứng đầu của tập thể, tôi luôn xác định muốn có một tập thể đoàn kết thì phải xây dựng đội ngũ Ban giám hiệu đoàn kết. Ban giám hiệu cũng là những người xử lý công việc chính của nhà trường, nếu đội ngũ này không đoàn kết thì xử lý công việc khó thành công. Ở đây, người Hiệu trưởng là con chim đầu đàn, thể hiện qua những lời nói, việc làm đầy trách nhiệm và gương mẫu đi đầu, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trong công việc để mọi người noi theo. Thể hiện đoàn kết trong Ban giám hiệu từ những việc làm và lời nói cụ thể như trước khi chuẩn bị một kế hoạch gì lớn hoặc giải quyết một công việc gì nếu biết trước thì Hiệu trưởng là người định hướng. Sau đó mời họp Ban giám hiệu để cùng tham khảo ý kiến. Phó Hiệu trưởng sẽ đưa ra nhiều cách giải quyết khác nhau dù đúng hay không đúng ý của mình cũng ghi nhận sau đó hiệu trưởng phân tích và chốt lại cách xử lý sau khi tham khảo ý kiến. Qua việc làm trên khi có tham khảo ý kiến nhưng Hiệu trưởng quyết ý chốt lại, có thể không trùng ý với Phó hiệu trưởng nhưng qua đó tâm lý người Phó hiệu trưởng cũng được thoải mái hơn. Vì khi thông qua Ban giám hiệu vừa giúp Hiệu trưởng ghi nhận được ý kiến, vừa giúp chị em cùng thông hiểu một kế hoạch lớn mà Hiệu trưởng sắp triển khai và đã được bàn bạc, phân tích kỹ lưỡng và hiểu vì sao Hiệu trưởng lại chọn theo cách giải quyết như vậy, các cô Phó hiệu trưởng vui vẻ tiếp nhận và cùng chung ý tưởng,.. Khi đã bàn bạc trong Ban giám hiệu trước rồi mới triển khai trong Hội đồng sư phạm thì dù việc lớn hay nhỏ, chắc chắn sẽ được đồng thuận cao hơn vì ít nhất cũng có Phó hiệu trưởng hiểu vấn đề đó để lý giải cho giáo viên, nhân viên và người lao động cùng hiểu rõ. Còn nếu như không có sự bàn bạc thống nhất trước, khi triển khai nhiệm vụ có thể sẽ gặp một số phản kháng, đặc biệt không chỉ là giáo viên, nhân viên mà còn có cả Ban giám hiệu, như vậy vô tình lãnh đạo nhà trường có tác động xấu cho đội ngũ giáo viên, nhân viên. Ngoài ra tôi thường dành thời gian trò chuyện, thăm hỏi nắm bắt tâm tư nguyện vọng về đời tư, hoàn cảnh gia đình, sức khỏe, diễn biến tâm lý,… của cán bộ, giáo viên và nhân viên. Từ đó tạo điều kiện cho các đồng chí phát huy mặt mạnh, năng lực chuyên môn, năng khiếu sẵn có của mình linh động trong từng hoàn cảnh. Tôi luôn quan tâm thực hiện tốt công tác thăm hỏi cán bộ, giáo viên, nhân viên gặp hoàn cảnh khó khăn, bố trí những giáo viên có con lớn giúp đỡ giáo viên có con nhỏ, mang thai,… Chăm lo đời sống vật chất tinh thần cho đội ngũ giáo viên là một vấn đề quan trọng trong chính sách phát triển nhà trường, chăm lo tốt đời sống vật chất, tinh thần cho đội ngũ là điều kiện cần thiết quyết định chất lượng giáo dục và đào tạo. Nhà trường phối hợp với công đoàn luôn quan tâm, chăm lo cho đội ngũ ổn định cuộc sống; thường xuyên động viên thăm hỏi, giúp đỡ giáo viên có hoàn cảnh khó khăn, ốm đau, thai sản, tai nạn, rủi ro, thiên tai…Ngoài ra nhà trường còn tạo điều kiện, phân công bố trí lao động phù hợp, tạo cơ hội cho giáo viên phát triển toàn diện về mọi mặt. Điểm mới của giải pháp: Là giải tỏa áp lực cho giáo viên sau những giờ làm việc, tạo sự gắn kết giữa giáo viên với giáo viên, giữa giáo viên với Ban giám hiệu nhà trường. . Tổ chức các buổi họp mặt cho tập thể sư phạm trường nhân các ngày lễ lớn, tạo cho các cô có thời gian thư giãn, chia sẻ, trò chuyện cùng nhau là một trong những giải pháp rất hữu hiệu. Điều tôi luôn quan tâm trong các buổi họp mặt nói đến các vấn đề như công tác chuyên môn, trường, lớp, có như vậy các cô mới được vui cười thoải mái. Trong những buổi họp mặt như thế, tôi tiếp nhận được rất nhiều sự chia sẻ và tâm tư nguyện vọng của các cô để có hướng điều chỉnh cách quản lý của mình cho phù hợp, tạo động lực thúc đẩy các cô không ngừng phấn đấu vươn lên. Đây tưởng chừng như những việc làm rất đơn giản, nhưng đã đem lại hiệu quả rất lớn vì khi không còn áp lực, vui vẻ thoải mái các cô sẽ bộc lộ hết khả năng tư duy và sáng tạo của mình. Năm 2024 trường tôi đã có giáo viên nhận Bằng khen củ UBND tỉnh và có 07 Chiến sĩ thi đua cấp cơ sở. (Phong trào chào mừng ngày 20.10) (Hình ảnh tổ chức họp mặt ngày Quốc tế phụ nữ và ngày Quốc tế hạnh phúc) (Hình ảnh họp mặt ngày 20/11, giáo viên nhận Bằng khen của UBND tỉnh) Bên cạnh đó nhà trường phối hợp tốt với các tổ chức đoàn thể trong đơn vị thường xuyên tổ chức các hoạt động ngoại khóa để các chị em có dịp giáo lưu tình cảm với nhau sau những ngày làm việc vất vả và nhưng lo toan bộn bề trong cuộc sống hàng ngày. Những lúc này mọi người thấy mình được thoải mái vui chơi, được cười nói gắn kết các thành viên trong nhà trường, không có sự ngăn cách giữa lãnh đạo và giáo viên, nhân viên. (Đoàn viên và các cháu đến thăm Doanh trại bộ đội) Ở bất cứ một tập thể nào cũng vậy, bên cạnh những đồng chí nhanh nhẹn, tháo vát, trình độ chuyên môn tốt vẫn còn số ít đồng chí còn hạn chế về năng lực, ngại giao tiếp. Ở trường tôi cũng vậy ngay từ đầu năm học tôi phải sắp xếp có sự xen kẽ những đồng chí tháo vát, năng lực tốt với những đồng chí còn hạn chế về chuyên môn để giúp đỡ nhau cùng nhau tiến bộ. Hoặc tạo điều kiện cho các đồng chí được thử sức mình qua các hoạt động, để thoát ra những rào cản của bản thân mình để phát triển vươn lên cùng đồng nghiệp. 3.7. Tăng cường công tác bồi dưỡng ứng dụng công nghệ thông tin để nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ (giải pháp mới). Giáo viên có xu hướng sử dụng những sản phẩm và phần mềm trò chơi lập trình có sẵn hơn các sản phẩm tự thiết kế. Những sản phẩm này nhìn đẹp thu hút trẻ nhưng có lúc không phù hợp với ý tưởng, mục tiêu bài dạy của giáo viên. Xuất phát từ thực trạng trên cho thấy, việc bồi dưỡng kỹ năng thiết kế, ứng dụng công nghệ thông tin cho giáo viên là rất cần thiết nâng cao hiệu quả giảng dạy của giáo viên. Thực hiện giải pháp này giúp trẻ hứng thú hơn trong các hoạt động, giáo viên được nâng cao nǎng lực chuyên môn, giáo viên linh hoạt, sáng tạo hơn tạo cho trẻ hứng thú tham gia các hoạt động và tiếp thu kiến thức một cách chủ động, nhằm đem lại một hiệu quả cao cho bài dạy. Bên cạnh đó, ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học còn giúp giáo viên có thể chia sẻ bài giảng với đồng nghiệp, cùng nhau thảo luận tìm ra giải pháp tốt hơn. * Tổ chức bồi dưỡng qua các buổi sinh hoạt chuyên môn, tập huấn chuyên đề. Nội dung bồi dưỡng cần hướng dẫn tập trung vào thực hành một số kĩ thuật thiết kế phù hợp với đặc trưng trong giáo dục mầm non và nâng cao dần các kĩ thuật cũ theo hướng kết hợp thêm kĩ thuật mới, không đi theo hướng cung cấp nhiều kĩ thuật mà không có sự kết nối. * Tổ chức bồi dưỡng kỹ thuật thiết kế ứng dụng thông qua hoạt động dự giờ. Xây dựng bài dạy cho hoạt động dự giờ có ứng dụng CNTT, bộ phận chuyên môn phải có sự đầu tư về ý tưởng thiết kế, kĩ thuật thiết kế các trò chơi, ứng dụng các phần mềm công nghệ phù hợp với trẻ, với mục tiêu bài dạy để minh họa bồi dưỡng cho giáo viên. Dự giờ đồng nghiệp là hình thức bồi dưỡng tạo cơ hội trải nghiệm các ý tưởng thiết kế, các ứng dụng phần mềm và cách sử dụng sản phẩm minh họa dưới nhiều hình thức khác nhau. Ví dụ: Thiết kế hoạt cho trẻ làm quen với chữ cái, giáo viên sử dụng công nghệ Al (Trí tuệ nhân tạo) để thiết kế hiệu ứng chữ cái, chữ cái biết nói, biết phát âm biết yêu cầu trẻ làm theo luôn tạo sự hứng thú tò mò, thu hút khả năng chú ý và phát triển tư duy cho trẻ. Dụng cụ trực quan minh họa cho ý tưởng thiết kế không chỉ được làm từ các nguyên vật liệu khác nhau, hình ảnh cô giáo và trẻ sau màn chiếu bóng đã trở thành một công cụ truyền đạt kiến thức cho trẻ rất hữu hiệu. Ví dụ: Trong giờ dạy trẻ phát triển tình cảm xã hội với chủ đề "Trường mầm non" giáo viên sử dụng minh họa trực quan là cô và trẻ sau màn chiếu bóng, qua màn chiếu hình ảnh cô và trẻ được chiếu lên các động tác dịu dàng, sống động, thân quen rất thu hút trẻ. ( Hình ảnh minh họa cho các hoạt động dự giờ có ứng dụng CNTT) Năm học này trường được dạy minh họa 02 hoạt động trong buổi sinh hoạt chuyên môn do huyện tổ chức. Trong quá trình chuẩn bị thiết kế 02 hoạt động giáo dục, giáo viên được nêu ý tưởng thiết kế, kỹ thuật thiết kế, chia sẻ kỹ thuật ứng dụng công nghệ vào bài giảng làm sao cho bóng hiện rõ, không bị nhòe, thông qua kỹ thuật lựa chọn thiết bị chiếu sáng, kỹ năng biểu diễn rối. ( Hình ảnh ứng dụng công nghệ chiếu bóng qua màn ảnh) * Khuyến khích và tạo điều kiện cho giáo viên tự bồi dưỡng nâng cao ý tưởng, kỹ thuật thiết kế và ứng dụng vào trong bài dạy Tôi tìm hiểu sưu tầm các nguồn tài liệu có liên quan để giới thiệu cho giáo viên nghiên cứu, khai thác và áp dụng trong thiết kế bài giảng, xây dựng kế hoạch,… Giáo viên đọc sách “Giáo trình photosop 7.0, thủ thuật làm ảnh động trên photosop” để có kiến thức cắt, chỉnh sửa ảnh, làm ảnh động, thao tác với các phần mềm trên mạng internet để biết cách cắt, ghép nhạc, video nhờ phần mềm cắt, ghép nhạc và chỉnh sửa nhạc trực tuyến. Một số trang web hỗ trợ đắc lực cho giáo viên mầm non trong việc thiết kế các bài giảng điện tử là: giaovien.net, dayhocintel.net, Violet.vn, tailieu.vn, website thietbimamnonhavu.com...Ngoài ra để thực hiện tốt công tác bồi dưỡng tôi tự học hỏi tự bồi dưỡng sử dụng tốt các phần mềm cơ bản như: + Microsoft Word: Phần mềm soạn thảo văn bản, dùng để soạn công văn, báo cáo, kế hoạch và tất cả các loại văn bản khác. Tôi có thể dùng kiểm tra giáo án, kế hoạch,... vừa ứng dụng vào trong công tác quản lý của mình. + Microsoft Excel: Phần mềm tạo bảng tính để xây dựng các chi phí tài chính hoặc lưu trữ, thống kê số liệu CB, GV, NV và học sinh, .... Excel mạnh ở điểm là có thể dựa vào những phương pháp tính toán, thống kê tùy ý một cách rất dễ dàng và chính xác, giúp cho người quản lý, giáo viên tiết kiệm được thời gian. + Sử dụng hiệu quả phần mềm Powerpoint Với phần mềm này chúng ta có thể sử dụng cho tất cả các hoạt động: Khám phá khoa học, làm quen với toán, hoạt động âm nhạc, thơ, truyện, làm quen chữ cái, tạo hình... 4. Kết quả Trong suốt quá trình nghiên cứu và áp dụng các biện pháp nêu trên, tôi quan sát nhận thấy sự tiến bộ rõ rệt của giáo viên, chất lượng của đội ngũ giáo viên ngày càng được nâng lên, công tác chăm sóc giáo dục trẻ đạt hiệu quả ngày càng cao thể hiện qua kết quả khảo sát sau khi áp dụng đề tài Khảo sát chất lượng giáo viên sau khi thực hiện đề tài ( số lượng 13 giáo viên, có 02 giáo viên mới tuyển dụng vào tháng 12/2024 STT Nội dung Tốt Khá Trung bình Số GV Tỷ lệ % Số GV Tỷ lệ % Số GV Tỷ lệ % 1 Nắm vững chương trình chăm sóc, giáo dục trẻ theo độ tuổi 9 69.2 3 23.1 1 7.7 2 Hình thức tổ chức các hoạt động linh hoạt, sáng tạo 9 69.2 4 30.8 0 3 Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy và học 10 76.9 2 15.4 1 7.7 4 Tạo môi trường hoạt động cho trẻ phong phú, hấp dẫn thiết kế theo hướng mở thu hút trẻ. 10 76.9 3 23.1 0 5 Tự tin khi lên lớp 9 69.2 3 23.1 1 7.7 Khảo sát chất lượng trẻ sau khi thực hiện đề tài ( số lượng 163 trẻ) STT Nội dung Số trẻ đạt Tỷ lệ % Số trẻ chưa đạt Tỷ lệ % 1 Trẻ nắm vững kiến thức, kỹ năng vận dụng linh hoạt, sáng tạo trong các hoạt động 139 85.3 24 14.7 2 Trẻ hứng thú tham gia các hoạt động 151 92.6 12 7.4 3 Trẻ mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp với người lớn 155 95.1 8 4.9 Từ kết quả trên cho thấy, qua việc vận dụng các giải pháp trên đã làm thay đổi cơ bản về chất lượng đội ngũ giáo viên trong lĩnh vực chuyên môn, rất nhiều giáo viên đã nắm vững kiến thức chuyên môn, kỹ năng lên lớp bình tĩnh, tự tin, linh hoạt và biết tạo cơ hội cho trẻ trải nghiệm, khám phá,…đặt biệt là ý thức trách nhiệm, tinh thần đoàn kết thể hiện rõ nét trong môi trường giáo dục. Môi trường giáo dục đã được giáo viên chủ động trang trí theo chủ đề và theo quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm, trẻ đã được cùng cô trang trí và khám phá trải nghiệm về môi trường đó. Về phía nhà trường chất lượng đội ngũ đã được nâng lên rõ rệt, các hoạt động chăm sóc giáo dục được thực hiện nghiêm túc, công tác thi đua trong nhà trường trở nên sôi nôi lành mạnh. Chính vì thế, nhà trường đã tạo được lòng tin lớn trong các bậc phụ huynh và công tác xã hội hóa giáo dục đã được thay đổi, thu hút được rất nhiều các cấp các ngành và các cá nhân trên địa bàn quan tâm ủng hộ và đầu tư về cơ sở vật chất trong nhà trường. Đối với bản thân tôi, sau khi áp dụng đề tài nghiên cứu này nó có ý nghĩa rất lớn đối với tôi, bởi qua nghiên cứu và thực hiện đề tài giúp tôi có được kỹ năng trong công tác quản lý, hiểu và nắm bắt rõ ràng về điểm mạnh và điểm yếu của đội ngũ giáo viên mình cũng như chất lượng chuyên môn của nhà trường, giúp tôi có thêm được những kiến thức qua thực tế của đề tài, biết được việc xây dựng kế hoạch và thực hiện theo kế hoạch một cách khoa học và linh hoạt sáng tạo để nhằm đạt được hiệu quả trong công tác quản lý chuyên môn và các hoạt đông khác. Qua đây chúng ta hiểu rõ hơn nữa việc bồi dưỡng cho giáo viên, đội ngũ trực tiếp chăm sóc giáo dục trẻ phải được quan tâm để nâng cao chất lượng hàng đầu, chất lượng đội ngũ được nâng lên, chất lượng trong nhà trường sẽ nâng lên. III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 1. Kết luận Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói “Không có thầy thì không có giáo dục”, điều đó đã khẳng định vai trò của đội ngũ giáo viên vô cùng quan trọng trong sự nghiệp trồng người, là yếu tố cơ bản quyết định trong việc phát triển giáo dục. Vì vậy, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo có ý nghĩa to lớn và quan trọng trong sự nghiệp đổi mới giáo dục, là điều kiện cơ bản để phát triển nguồn lực con người. Xây dựng bồi dưỡng nâng cao năng lực của giáo viên là vấn đề cấp bách và cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Qua nghiên cứu có thể khẳng định rằng chúng ta muốn phát triển nhà trường lên một tầm cao mới, trước tiên phải có đội ngũ sư phạm tâm huyết với nghề, giỏi về chuyên môn, vững về nghiệp vụ, có tin thần trách nhiệm cao trong công việc. Muốn vậy, trước hết người cán bộ quản lý phải vững vàng về chuyên môn nghiệp vụ, có năng lực tổ chức điều hành các hoạt động của nhà trường. Người giáo viên phải có tinh thần học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực của bản thân, luôn tu dưỡng rèn luyên phẩm chất đạo đức, yêu nghề, mến trẻ, có trách nhiệm cao đối với công việc, phải đổi mới, sáng tạo và áp dụng một cách linh hoạt. Thực hiện nghiêm túc các hoạt động chăm sóc và giáo dục trẻ, đúng kế hoạch, đảm bảo cho các cháu được học tập, vui chơi đúng chương trình. Giáo viên phải nắm bắt được tâm sinh lý, khả năng nhận thức của trẻ lớp mình, để lựa chọn hình thức tổ chức, phương pháp giáo dục cho phù hợp. Bồi dưỡng giáo viên là nhiệm vụ trọng tâm của mỗi trường học, là việc làm thường xuyên và là trách nhiệm của người làm công tác quản lý. Muốn công tác bồi dưỡng đội ngũ tốt thì đòi hỏi người cán bộ quản lý phải có “Tâm” có “Tầm” có năng lực chuyên môn vững vàng, sáng tạo, tâm huyết, say mê với nghề nghiệp, luôn quan tâm đến công tác phát triển nhà trường. Giúp giáo viên biết linh hoạt sáng tạo trong việc thiết kế các hình thức tổ chức hoạt động cho trẻ, lồng ghép tích hợp các nội dung phù hợp. Bồi dưỡng năng lực giáo viên biết sáng tạo, sưu tầm những trò chơi mới, sử dụng công nghệ thông tin vào tổ chức hoạt động cho trẻ, sẽ tạo ra những điều mới lạ. kích thích tính tò mò hứng thú của trẻ, hiệu quả của tiết học sẽ cao hơn. Tăng cưòng công tác kiểm tra đánh giá chất lượng giáo viên để phát huy những mặt mạnh, khắc phục những mặt còn hạn chế. Trước yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay, đổi mới toàn diện phát triển theo hướng công nghiệp hóa- hiện đại hóa. Để đáp ứng nhiệm vụ đó đòi hỏi phải có một đội ngũ giáo viên ngang tầm, đủ năng lực, trí tuệ, phẩm chất "Là con thuyền cách mạng" đến "Bên bờ thắng lợi", chỉ có sự nghiệp giáo dục mới bồi dưỡng được đội ngũ nhân lực đủ tài và đủ sức để thực hiện thắng lợi công nghiệp hóa; hiện đại hóa đất nước. 2. Kiến nghị - Cơ quan lãnh đạo cấp trên tổ chức cho đội ngũ cán bộ quản lý mầm non được tham quan học tập kinh nghiệm ở các trường mầm non trong và ngoài tỉnh. Xác nhận của đơn vị Người viết Phạm Thị Phi Pha Trần Thị Kim Nhiên TÀI LIỆU THAM KHẢO - Thông tư số 51/2020/TT-BGDĐT ngày 31/12/2020 sửa đổ, bổ sung Chương trình Giáo dục mầm non. - Thông tư số 11/2019/TT-BGDĐT ban hành tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho CBQLMN. - Thông tư số 12/2019/TT-BGDĐT ban hành tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho GVMN. - Giáo trình photosop 7.0, thủ thuật làm ảnh động trên photosop. - Tạp chí Giáo dục Xã hội tháng 3/2025 (kì 1). I. Mở đầu 1. Lý do chọn đề tài sáng kiến Trong những năm qua Đảng và Nhà nước luôn quan tâm xây dựng, phát triển đội ngũ giáo viên theo hướng chuẩn hóa, đảm bảo đủ về số lượng, nâng cao chất lượng, đặc biệt chú trọng xây dựng bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, lương tâm nghề nghiệp và trình độ chuyên môn nghiệp vụ của giáo viên, đáp ứng nhu cầu thực tế đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hội nhập quốc tế. Đồng thời khẳng định vai trò “Quyết định chất lượng giáo dục” là của đội ngũ nhà giáo. Điều này thể hiện niềm vui, thể hiện niềm tin vừa thể hiện sự mong đợi rất nhiều từ Đảng và Nhà nước đối với đội ngũ giáo viên trong công cuộc đổi mới nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Chất lượng chuyên môn của đội ngũ giáo viên trong trường mầm non sẽ góp phần to lớn đưa lại hiệu quả cao về chất lượng trẻ, giúp trẻ phát triển toàn diện, chuẩn bị tốt tâm thế bước vào lớp một. Chính vì vậy, người giáo viên mầm non được xem là người đặt nền móng đầu tiên góp phần hình thành nhân cách ban đầu cho trẻ. Nhiệm vụ của người giáo viên mầm non hết sức nặng nề, ngoài việc truyền thụ những kiến thức, kỹ năng đơn giản ban đầu cho trẻ thì còn phải chăm sóc, nuôi dưỡng, uốn nắn và tập cho trẻ những thói quen, kỹ năng sống. Để thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ chăm sóc, giáo dục trẻ đáp ứng nhu cầu đổi mới của giáo dục hiện nay, việc dạy học giữ vai trò chủ đạo trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách của trẻ. Thông qua hoạt động dạy - học nhận thức về trí tuệ và hành vi của trẻ được phát triển. Điều này chứng tỏ việc bồi dưỡng năng lực chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ giáo viên mầm non là hết sức cần thiết. Chất lượng đội ngũ được nâng cao, tạo được niềm tin cho các bậc phụ huynh an tâm gửi con đến trường. Mục tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ vào lớp một; hình thành và phát triển ở trẻ những chức năng tâm sinh lý, năng lực và phẩm chất mang tính nền tảng, những kỹ năng sống cần thiết phù hợp với lứa tuổi, khơi dậy và phát triển tối đa những khả năng tiềm ẩn, đặt nền tảng cho việc học ở cấp học phổ thông sau này. Thực hiện mục tiêu đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, mỗi nhà giáo theo yêu cầu đổi mới không những là người giỏi về chuyên môn mà còn cần phải có năng lực sư phạm, năng lực giáo dục, phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp, tinh thần trách nhiệm,…Đồng thời có trách nhiệm cao trong việc xây dựng môi trường giáo dục cho trẻ hoạt động. Chính vì vậy việc xây dựng, bồi dưỡng và phát triển đội ngũ cho giáo viên đáp ứng yêu cầu đổi mới phát triển chất lượng giáo dục nói chung và chất lượng giáo dục mầm non nói riêng, là mục tiêu hàng đầu, là nhiệm vụ then chốt trong công cuộc đổi mới toàn diện giáo dục. Với vai trò là một cán bộ quản lý, nhận thức được vai trò của đội ngũ giáo viên đối với chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ. Làm thế nào để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện trong nhà trường, đó là thách thức đối với những người làm công tác quản lý như chúng tôi. Năm học 2023 - 2024 tôi đã nghiên cứu đề tài sáng kiến “Biện pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên trong trường mầm non” mang lại kết quả rất khả quan. Chính vì vậy tôi tiếp tục chọn nghiên cứu phát triển đề tài này trong năm học 2024 – 2025. 2. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài sáng kiến Nhằm nâng cao chất lượng chuyên môn, hiệu quả trong việc đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục. Bồi dưỡng nâng cao năng lực cho giáo viên nhằm đáp ứng đổi mới toàn diện. Nâng cao ý thức trách nhiệm, lòng say mê và tâm huyết với nghề, trao dồi phẩm chất đạo đức lối sống tốt trong nghề nghiệp của đội ngũ giáo viên. Phát triển các kỹ năng vốn có của giáo viên, đồng thời giúp giáo viên cải thiện những hạn chế của bản thân trong công tác. Đảm bảo nâng cao chất lượng chăm sóc và giáo dục trẻ trong nhà trường theo yêu cầu “Đổi mới căn bản và toàn diện” giúp trẻ phát triển một cách toàn diện. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Để thực hiện được đề tài bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên trong trường mầm non, tôi đã tiến hành nghiên cứu trên 14 giáo viên và 163 học sinh độ tuổi khác nhau trong Trường Mầm non Rạng Đông. Nội dung nghiên cứu được trải nghiệm trong quá trình chăm sóc giáo dục trẻ. Góp phần nâng cao tay nghề của giáo viên đồng thời tìm ra những giải pháp khắc phục những khó khăn, hạn chế của giáo viên trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ trong nhà trường. II. NỘI DUNG 1. Cơ sở lý luận Giáo dục mầm non đã có nhiều chuyển đổi trong cách nghĩ, cách làm mạnh dạn bỏ đi những gì không phù hợp, tiến hành đổi mới hoàn toàn các mặt mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức môi trường hoạt động và cách đánh giá chất lượng giáo dục. Chúng ta đã khẳng định rằng bậc học mầm non tạo nền tảng cho ban đầu cho quá trình đào tạo và phát triển con người toàn diện, nhằm đáp ứng yêu ngày càng cao của xã hội. Nghị quyết 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã nhấn mạnh mục tiêu nâng cao chất lượng giáo tập trung phát triển trí tuệ, phẩm chất, năng lực người học. Vì vậy việc bồi dưỡng giáo viên được xác định là nhiệm vụ then chốt nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo. Hiện nay, công tác bồi dưỡng này hiện vẫn còn tồn tại nhiều bất cập và thách thức. Thời gian qua bậc học mầm non cũng đã có nhiều đóng góp và có tinh thần trách nhiệm cao trong công tác “Ươm mầm xanh” cho đất nước, nhằm đáp ứng đổi mới căn bản phù hợp với xã hội phát triển không chỉ dừng lại bằng lòng với những kết quả đã đạt được để thực hiện mục tiêu đổi mới chúng ta cần bắt đầu vào việc nâng cao chất lượng hoạt động trong nhà trường mà nòng cốt là đội ngũ nhà giáo. Vì vậy, công tác bồi dưỡng giáo viên luôn được quan tâm trong công cuộc xây dựng và phát triển trường. Để có được đội ngũ giáo viên mầm non có đạo đức, tâm huyết với nghề, có tinh thần cầu tiến, có năng lực sư phạm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của công tác chăm sóc giáo dục trẻ, góp phần nâng cao vị thế của giáo dục mầm non. Thì công tác bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ của giáo viên mầm non là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu mà những người cán bộ quản lý cần phải quan tâm. 2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu Trường Mầm non Rạng Đông thuộc xã biên giới Mỹ Quý Đông, huyện Đức Huệ, nhiệm vụ trọng tâm của nhà trường là nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ trong độ tuổi mẫu giáo. Tập thể nhà giáo đã không ngừng phấn đấu từng bước nâng cao chất lượng hoạt động của nhà trường. Năm học 2024 - 2025 toàn trường có 163 trẻ/7 lớp Trong đó: Lớp Mầm: 22 trẻ/1 lớp; Lớp Chồi: 76 trẻ/3 lớp; Lớp Lá: 65 trẻ/3 lớp * Thuận lợi Nhà trường luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo của Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Đức Huệ, cấp ủy, chính quyền địa phương đã tạo điều kiện giúp đỡ, động viên về tinh thần, vật chất, đặc biệt luôn nhận được sự quan tâm, đồng thuận của Ban đại diện cha mẹ trẻ em đã góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của nhà trường. Trường có 13/13 giáo viên trình độ có trình độ đạt chuẩn, trong đó có 11 giáo viên trình độ Đại học. Đội ngũ giáo viên trẻ, khỏe, nhiệt tình, tâm huyết với nghề, tích cực tham gia các hoạt động của nhà trường. Giáo viên trẻ tiếp cận cái mới nhanh, có khả năng ứng dụng công nghệ thông tin vào trong tổ chức hoạt động cho trẻ. Nhà trường có Ban giám hiệu đều trẻ tuổi, có sức khỏe và chuyên môn nghiệp vụ khá vững vàng, nhiệt tình, năng động và có kế hoạch chỉ đạo các hoạt động của nhà trường một cách khoa học. * Khó khăn Năng lực chuyên môn của giáo viên không đồng đều, năm 2024 trường tiếp nhận 02 giáo viên mới tuyển dụng thiếu kinh nghiệm trong giảng dạy, thiếu sự linh hoạt khi lựa chọn nội dung, thiết kế hoạt động theo hướng lấy trẻ làm trung tâm. Nhiều giáo viên đang độ tuổi sinh đẻ, nuôi con nhỏ cũng ảnh hưởng đến việc tự học tập nâng cao năng lực của bản thân. Việc xây dựng môi trường học tập trong và ngoài lớp học của giáo viên còn hạn chế, chưa theo hướng mở tạo cơ hội cho trẻ hoạt động. Nhà trường còn thiếu các phòng chức năng và khối phòng hành chính. * Về đội ngũ giáo viên Đến tháng 12/2024 trường tiếp nhận 02 giáo viên mới tuyển dụng, toàn trường có 13 giáo viên, giáo viên đạt trình độ Đại học 11/13 tỷ lệ 84,61%. Ngoại ngữ trình độ B 13/13 tỷ lệ 100%; tin học trình độ A 13/13 tỷ lệ 100%. * Về cơ sở vật chất Trường có 3 điểm: 01 điểm chính và 2 phân hiệu Toàn trường có 02 phòng làm việc chung cho Ban giám hiệu và nhân viên. Có 03 sân chơi: Có mái che mát, có đồ chơi ngoài trời. Có 01 bếp ăn thực hiện theo quy tắc 1 chiều. Bàn, ghế học sinh và các thiết bị, đồ dùng đồ chơi đủ cho trẻ hoạt động. * Kết quả khảo sát đánh giá Để giáo viên được trải nghiệm giáo dục trẻ ở nhiều độ tuổi khác nhau, năm học 2024 - 2025 tôi phân công thay đổi giáo viên ở các lớp. Đồng thờ tôi luôn theo dõi, tìm hiểu và đánh giá chất lượng đội ngũ giáo viên của trường mình, tìm ra các giải pháp tốt nhất để nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên. Để làm được điều đó trước tiên tôi xây dựng nội dung khảo sát nhằm có được con số chính xác để tìm giải pháp, biện pháp phù hợp nhất bồi dưỡng cho đội ngũ giáo viên trường mình. Khảo sát chất lượng giáo viên trước khi thực hiện đề tài ( số lượng 11 giáo viên) STT Nội dung Tốt Khá Trung bình Số GV Tỷ lệ % Số GV Tỷ lệ % Số GV Tỷ lệ % 1 Nắm vững chương trình chăm sóc, giáo dục trẻ theo độ tuổi 5 4 2 2 Hình thức tổ chức các hoạt động linh hoạt, sáng tạo 4 5 2 3 Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy và học 5 4 2 4 Tạo môi trường hoạt động cho trẻ phong phú, hấp dẫn thiết kế theo hướng mở thu hút trẻ. 4 4 3 5 Tự tin khi lên lớp 4 4 3 Khảo sát chất lượng trẻ trước khi thực hiện đề tài ( số lượng 163 trẻ) STT Nội dung Số trẻ đạt Tỷ lệ % Số trẻ chưa đạt Tỷ lệ % 1 Trẻ nắm vững kiến thức, kỹ năng vận dụng linh hoạt, sáng tạo trong các hoạt động 87 76 2 Trẻ hứng thú tham gia các hoạt động 90 73 3 Trẻ mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp với người lớn 85 78 3. Các giải pháp 3.1. Bồi dưỡng về ý thức trách nhiệm phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp cho giáo viên trong công tác chăm sóc, giáo dục trẻ. Giáo viên mầm non được ví như người mẹ hiền thứ hai của trẻ, và đây cũng là lực lượng quyết định chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ trong trường mầm non. Chính vì thế, việc bồi dưỡng ý thức trách nhiệm, đạo đức lối sống, sự tâm huyết cho đội ngũ giáo viên là một việc làm rất quan trọng và cần thiết bỡi lẽ: phẩm chất chính trị có vững vàng, tư tưởng chính trị có tốt thì người giáo viên mới “yêu nghề, mến trẻ”, tận tụy với công việc, yên tâm công tác. Đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ giáo viên có tốt thì hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ trong trường mầm non mới giỏi. Lòng yêu nghề, tinh thần trách nhiệm giúp cho người giáo viên gắn bó với trẻ, điều đó biểu hiện ở lòng nhân hậu, vị tha, công bằng, tế nhị và chu đáo, quan tâm để ý từng thay đổi nhỏ của trẻ. Giáo viên phải tỉ mỉ để phát hiện ra những nhu cầu của cá nhân trẻ ở mọi lúc mọi nơi, điều đó thể hiện sự gần gũi mà ở bậc học khác không thể có được. Để mỗi giáo viên phải luôn giữ lập trường tư tưởng vững vàng, ý chí phấn đấu vươn lên, gương mẫu trong công tác, có tinh thần trách nhiệm hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Tôi đã chỉ đạo bộ phận chuyên môn lựa chọn và đưa nội dung bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, tinh thần trách nhiệm vào trong kế hoạch bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên và đây cũng là nội dung thường xuyên được quán triệt trong các kỳ họp Chi bộ nhà trường. (Hình ảnh hội nghị của Chi bộ) Quán triệt giáo viên tự xác định cho mình các tiêu chí trên tất cả các mặt trong đó có các tiêu chí về phẩm chất chính trị, trách nhiệm với công việc, đạo đức nghề nghiệp vào trong bản cam kết tu dưỡng rèn luyện để phấn đấu hoàn thiện bản thân. Ví dụ: Trong bản cam kết tu dưỡng rèn luyện hàng năm gợi ý giáo viên chọn nội dung để học tập và làm theo Bác, đồng thời được đánh giá kết quả thực hiện thường xuyên trong các kỳ hội nghị sơ kết, tổng kết. Hàng năm rà soát hoàn thiện lại Bộ quy tắc ứng xử và triển khai thực hiện trong đơn vị, đưa các tiêu chí này vào trong bình xét thi đua của năm. Tổ chức họp hội đồng định kỳ hàng tháng có nội dung học tập, triển khai đầy đủ mọi Thông tư, Chỉ thị, Quyết định của ngành và cấp trên. Triển khai các yêu cầu của chuẩn nghề nghiệp giáo viên mầm non, Điều lệ trường mầm non, nhấn mạnh vai trò, trách nhiệm của người giáo viên mầm non, đặc biệt chú ý đến vấn đề vi phạm đạo đức nhà giáo....thông qua đó nhằm nâng cao nhận thức chính trị cho đội ngũ cán bộ giáo viên. Ngoài ra tôi còn chỉ đạo thực hiện Mô hình “Phiên chợ gắn kết yêu thương” gây quỹ giúp đỡ trẻ em có hoàn cảnh khó khăn được đến trường, mô hình này được duy trì được bốn năm, mô hình ngày càng lớn mạnh là nhờ vào sự cố gắng của các cô đã kêu gọi được sự đồng tình ủng hộ của các đơn vị kết nghĩa, qua đây tăng sự gắn kết của các cô giáo và tình thương của cô đối với trẻ và trẻ cũng cảm thấy mình được các cô yêu thương. (Hình ảnh ủng hộ tổ chức phiên chợ gắn kết yêu thương) (Hình ảnh trẻ được yêu thương từ phiên chợ kết nối yêu thương) Điểm mới của giải pháp: Hiện nay chủ trương xác nhập cấp tỉnh, cấp xã. Các trang mạng xã hội có rất nhiều nguồn thông tin khác nhau cũng làm cho tư tưởng của giáo viên ít nhiều bị giao động. Vấn đề được đặt ra ở đây là tình hình tư tưởng của giáo viên. Người cán bộ quản lý phải biết cách nắm bắt thông tin từ giáo viên, thường xuyên quan tâm, trò chuyện với giáo viên, giải tỏa kịp thời những điều giáo viên quan tâm, lo lắng từ các nguồn tin không chính thống. Qua đó nắm được suy nghĩ của giáo viên, có giải pháp chấn chỉnh những suy nghĩ sai dẫn đến phát ngôn tuyên truyền sai, làm chùn bước đến giáo viên khác. Thường xuyên chia sẻ lên nhóm Zalo của trường hình ảnh, các bài viết về các hoạt động hay mang lại hiệu quả thiết thực trong công tác dạy và học, công tác phong trào của đơn vị khác để các cô xem và có suy nghĩ tích cực hơn trong giai đoạn hiện nay. Phát động nhiều hội thi cho các cô và trẻ tham gia. Thực hiện mô hình bữa ăn sáng 00 đồng cho trẻ thu hút các cô chung tay thực hiện, qua đây sự yêu thương được lan tỏa, niềm vui được nhân đôi, tinh thần phấn khởi trước sự đồng tình ủng hộ của các đơn vị kết nghĩa trong và ngoài địa bàn cũng xua đi nỗi lo lắng của các cô. 3.2. Xây dựng môi trường học tập trong và ngoài lớp Môi trường giáo dục trong trường mầm non rất quan trọng đối với sự phát triển của trẻ. Hiểu được ý nghĩa và tầm quan trọng của việc xây dựng môi trường học tập cho trẻ, tôi đã xây dựng kế hoạch số 211/KH-MNRĐ ngày 5/10/2024 của trường Mầm non Rạng Đông về xây dựng trường học xanh sạch đẹp an toàn triển khai thực hiện trong toàn trường. Bồi dưỡng cho giáo viên nắm bắt kịp thời các nguyên tắc và tầm quan trọng của việc xây dựng môi trường học tập trong và ngoài lớp học cho trẻ theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm, đồng thời tiếp cận trang trí môi trường giáo dục STEM, giáo viên cùng nhau trao đổi, thảo luận tìm ra các giải pháp, cách thức, hình thức trang trí phù hợp theo đặc điểm của trẻ và điều kiện thực tế của lớp, của trường để có được môi trường học tập phong phú và sáng tạo cho trẻ hoạt động. Điểm mới của đề tài mà tôi nghiên cứu muốn đề cập đến đó là lấy trẻ làm trung tâm tạo môi trường ở góc mở ở các góc trong và ngoài lớp học cho trẻ hoạt động trong các giờ học cũng như giờ chơi tận dụng tối đa sản phẩm của trẻ huy động phụ huynh tìm kiếm nguyên vật liệu đồ dùng đồ chơi giáo viên phải xây dựng nội dung giờ học tập giờ làm đồ dùng đồ chơi ở các góc phù hợp với chủ đề mặt khác xây dựng môi trường góc mở cho trẻ hoạt động có nghĩa là giáo viên chỉ là người chuẩn bị các nguyên liệu ở các góc mà mình mở. Ở các góc mở mà mình đã thiết kế và trang trí giáo viên chỉ là người gợi ý hướng dẫn trẻ sẽ là người hoạt động chơi. * Môi trường học tập trong lớp học Trẻ mầm non luôn yêu thích cái đẹp, cái mới lạ, để lớp học thêm thu hút, hấp dẫn trẻ tôi hướng dẫn, gợi ý cho các cô trang trí kết hợp theo hướng STEM, giáo viên trang trí môi trường trong lớp với những hình ảnh, màu sắc sinh động, hài hòa, ngộ nghĩnh theo hướng mở, lắp ghép dễ dàng thay đổi hình ảnh cho phù hợp với chủ đề. (Hình ảnh các góc giáo dục trong lớp học) Bố trí các góc chơi hợp lý, góc ồn ào xa góc yên tĩnh, góc thư viện cần nhiều ánh sáng, góc bé tập làm nội trợ gần cửa ra vào, nhóm góc phân vai được bố trí gần nhau cho trẻ dễ dàng liên kết các góc chơi. ( Hình ảnh cách bố trí các góc chơi trong lớp học) Khuyến khích giáo viên tận dụng các nguồn nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương để trang trí lớp, đặc biệt là nguồn nguyên liệu tự nhiên và giấy thùng, vỏ chai nhựa,… để làm đồ dùng đồ chơi trưng bày bán ở góc siêu thị của bé. (Hình ảnh minh họa cho các góc chơi trong lớp) Đồ dùng đồ chơi, các nguyên liệu để tạo ra sản phẩm đóng vai trò không nhỏ trong quá trình học và chơi của trẻ. Cách sắp xếp gọn gàng, đẹp mắt cũng thu hút trẻ đến chơi. Các góc mở trong lớp giúp trẻ biết phối hợp nhiều nguyên liệu khác nhau tạo ra sản phẩm. Từ các dụng cụ cô sắp xếp sẵn trẻ có thể sử dụng bằng nhiều tình thức khác nhau theo ý của trẻ. (Hình ảnh bố trí, sắp xếp đồ dùng đồ chơi ở các góc) (Hình ảnh các góc mở trong lớp) * Môi trường học tập bên ngoài lớp học Môi trường học tập ngoài lớp học giúp trẻ hình thành các kỹ năng thực hành, phát triển các kỹ năng giao tiếp, ứng xử, kỹ năng hoạt động nhóm góp phần hình thành và phát triển nhân cách sau này cho trẻ. Trẻ được thỏa sức vui chơi, khám phá môi trường xã hội, trẻ được hòa mình vào thiên nhiên, thỏa mãn nhu cầu hoạt động của trẻ với phương châm “Học bằng chơi, chơi mà học”. Trong khuôn viên trường được bố trí sắp xếp rất nhiều khu vui chơi, sinh hoạt và học tập cho trẻ, ở các khu đều được trang bị dụng cụ, cho trẻ hoạt động Sân tập thể dục cho trẻ: nền sân được lát gạch vỉa hè chống trơn trượt khi trẻ vận động, có trang bị loa kéo phát bài hát, vòng, gậy,... cho trẻ tập. (Sân tập thể dục cho trẻ) Khu phát triển vận động: Tăng cường trang bị các đồ chơi hiện đại, sắp xếp hợp lý, chỉ đạo phó hiệu trưởng thường xuyên kiểm tra các đồ chơi ngoài trời và có kế hoạch tham mưu hiệu trưởng sửa chữa, thanh lý kịp thời, có cây xanh, mái che mát, trải cỏ đảm bảo an toàn cho trẻ vận động thỏa thích. ( Khu phát triển vận động cho trẻ) Sân bóng min ni, sân bóng rổ được thiết kế rộng rãi thoáng mát, có trải cỏ an toàn cho trẻ khi chơi, vườn cổ tích từng bước được xây dựng khang trang sạch đẹp, từng bước được thiết kế hiện đại hơn. (Hình ảnh Vườn cổ tích được cải thiện hiện đại hơn) (Hình ảnh sân bóng mini của trẻ) Khu chợ quê được bố trí lại ở vị trí thuận lợi cho trẻ hoạt động hơn, nhiều gian hàng được làm chắc chắn hơn, Các cô đã nhiều nguyên vật liệu như giấy thùng, vỏ hộp, chai nhựa để làm đồ chơi trưng bày cho các cửa hàng. (Hình ảnh khu chợ quê của bé) Khu vực cho trẻ trải nghiệm vui nhất là vườn rau của bé, các cháu được trồng, chăm sóc, thu hoạch rau cùng cô. (Hình ảnh vườn rau của bé) Có thể nói việc xây dựng môi trường giáo dục ở trường mầm non theo quan điểm “Lấy trẻ làm trung tâm” là thực sự cần thiết và rất quan trọng, thông qua đó hình thành cho trẻ một số kỹ năng cần thiết, tư duy phát triển, thỏa mãn nhu cầu nhận thức, mở rộng hiểu biết của trẻ, kích thích trẻ hoạt động tích cực, sáng tạo. (Hình ảnh góc vui sáng tạo cho trẻ) Các góc mở được chuẩn bị nhiều nguyên vật liệu khác nhau, theo sự gợi ý của cô trẻ được tự chon nguyên liệu và làm ra sản phẩm theo ý mình, với nguồn nguyên liệu tự nhiên gần gủi xung quanh trẻ rất dễ thu hút trẻ thao tác sáng tạo (Hình ảnh góc mở ngoài lớp học) Cảnh quan môi trường được trang trí đẹp, trẻ được hoạt động thoải mái, được trải nghiệm, được khám phá,…sẽ mang lại nhiều kết quả tốt. Môi trường được trang trí có thẩm mỹ, khoa học phụ huynh nhìn vào càng tin tưởng vào đội ngũ giáo viên, đặc biệt tạo được sự phối hợp nhiệt tình giữa phụ huynh với nhà trường, từ đó chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ sẽ thay đổi rõ nét, đảm bảo được sự phát triển toàn diện theo yêu cầu đổi mới, uy tín của nhà trường sẽ được nâng lên tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện xã hội hóa giáo dục. ( Góc thiên nhiên của lớp) 3.3. Đổi mới hình thức, phương pháp tổ chức hoạt động giáo dục lấy trẻ làm trung tâm. Giáo dục trẻ mầm non với quan điểm giáo dục “Học bằng chơi, chơi mà học” quan điểm đó ngày xưa đối với giáo viên mầm non nó chưa đúng hoàn toàn bởi việc dạy trẻ theo phương pháp cũ cô giáo là trung tâm, sẽ nói cho trẻ biết những điều mà trẻ chưa biết, sẵn sàng giải thích giúp đỡ trẻ khi trẻ mới bắt đầu làm và điều đặc biệt trẻ ít khi được khám phá, trải nghiệm trên các hoạt động, nhưng để đáp ứng với sự đổi mới và sự phát triển của xã hội, đòi hỏi cá nhân phải là chủ thể trong các hoạt động vậy nên phương pháp “giáo dục lấy trẻ làm trung tâm” sẽ giúp trẻ được tìm tòi khám phá, trải nghiệm để phát triển toàn diện hơn, muốn làm được điều này đòi hỏi đội ngũ giáo viên phải linh hoạt trong các hoạt động, sáng tạo trong cách tổ chức, biết tạo ra cơ hội để trẻ được thể hiện, đặc biệt giáo viên phải biết trăn trở, linh hoạt, sáng tạo tìm kiếm và xây dựng kế hoạch cho trẻ thực hiện với mục tiêu “tất cả hướng về trẻ”, để giúp giáo viên có nhận thức đúng đắn về vấn đề này tôi đã sử dụng các giải pháp sau: Bồi dưỡng về lý thuyết. Bồi dưỡng bằng cách tổ chức riêng về chuyên đề “giáo dục lấy trẻ làm trung tâm”. Chỉ đạo phó hiệu trưởng phụ trách chuyên môn soạn nội dung chuyên đề, Ban giám hiệu cùng thảo luận góp ý hoàn chỉnh những vấn đề cốt lõi, trọng tâm, chuyển văn bản cho giáo viên nghiên cứu trước và tổ chức buổi tập huấn cho các cô dưới hình thức tương tác với nhau. (Hình ảnh tập huấn, bồi dưỡng chuyên đề cho giáo viên) Qua thực hành, tổ chức chuyên đề bằng dạy mẫu và thảo luận đánh giá nhận xét giờ dạy giúp giáo viên tìm ra phương pháp “giáo dục lấy trẻ làm trung tâm”, trong quá trình tổ chức hoạt động, cách thức tổ chức, cách xây dựng hệ thống câu hỏi, sử dụng hệ thống câu hỏi như thế nào được gọi là “câu hỏi mở”. Từ đó giúp giáo viên biết được cụ thể cái mới, trẻ là trung tâm ở những nội dung nào. Chỉ đạo các phó hiệu trưởng, tổ trưởng chuyên môn bồi dưỡng các chuyên đề này qua các buổi sinh hoạt, qua kiểm tra theo dõi giáo viên hàng ngày trên thực tế của cô và hoạt động của trẻ, sau khi kiểm tra theo dõi tiếp tục có kế hoạch bồi dưỡng cho giáo viên còn nhiều hạn chế. Phân công giáo viên có năng lực chuyên môn giỏi đứng lớp cùng giáo viên yếu chuyên môn để bồi dưỡng cho giáo viên hàng ngày qua việc hợp tác thực hiện công tác chuyên môn. Chỉ đạo cho những giáo viên còn yếu chuyên môn xây dựng kế hoạch tự bồi dưỡng các mặt còn yếu đã được chỉ ra, sau đó Ban giám hiệu duyệt kế hoạch và phân công hiệu phó chuyên môn phối hợp với tổ trưởng cùng theo dõi và đánh giá kết quả tự bồi dưỡng của giáo viên hàng tháng. - Chỉ đạo giáo viên thiết kế sắp xếp, trang trí môi trường sư phạm giáo dục trong lớp, ngoài trời theo hướng mở, nhằm phát huy tối đa sự sáng tạo cho trẻ. - Đổi mới hình thức tổ chức trong các hoạt động, chú trọng việc lồng ghép nội dung giáo dục văn hoá truyền thống, giáo dục kỹ năng sống vào các hoạt động giáo dục phù hợp với độ tuổi và điều kiện của lớp. - Đối với trẻ không chỉ được cung cấp kiến thức, kỹ năng khi tham gia học tập trong lớp, các hoạt động chơi tập ngoài tời cũng cần được chú trọng. Môi trường ngoài lớp học đã được xây dựng, giáo viên cần chủ động thiết kế các hoạt động theo hướng mở để trẻ được thể hiện. (Các góc chơi ngoài trời cho trẻ thực hành, sáng tạo) Tạo điều kiện cho giáo viên được giao lưu, học tập, chia sẻ kinh nghiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn với các đơn vị trường bạn. Ban giám hiệu tăng cường công tác kiểm tra giám sát bộ phận chuyên môn trong việc bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên, công tác tự bồi dưỡng của giáo viên, đánh giá việc thực hiện chuyên đề để đưa ra giải pháp khắc phục kịp thời những khó khăn vướng mắc khi thực hiện. 3.4. Đổi mới, nâng cao chất lượng sinh hoạt tổ chuyên môn. Hiện nay, việc đổi mới phương pháp giảng dạy, nâng cao chất lượng giáo dục đang được nhà trường thực hiện một cách thường xuyên, liên tục, đòi hỏi giáo viên phải thường xuyên học hỏi, nâng cao năng lực chuyên môn, kỹ năng xử lý các tình huống sư phạm. Trong các hoạt động của nhà trường, hoạt động sinh hoạt tổ chuyên môn có vai trò rất quan trọng trong việc triển khai, thực hiện các nhiệm vụ giáo dục của nhà trường. Nếu chỉ đạo tốt đổi mới nội dung, hình thức sinh hoạt thì tổ chuyên môn sẽ là môi trường tốt cho giáo viên học hỏi, chia sẽ, trao đổi những vướng mắc trong chuyên môn, đồng thời cũng là nơi để giáo viên chia sẽ những kinh nghiệm trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ, học tập lẫn nhau cùng nhau tiến bộ. Để buổi sinh hoạt chuyên môn có chất lượng thì tổ trưởng chuyên môn phải bàn bạc, thống nhất chuẩn bị kỹ nội dung làm việc trước các buổi sinh hoạt chuyên môn trong tháng. Cần tham khảo thêm ý kiến chỉ đạo của phó hiệu trưởng phụ trách chuyên môn, tập trung đi sâu vào những vấn đề mới để tạo hứng thú cho giáo viên. Bồi dưỡng cho tổ trưởng nắm vững hơn cách tổ chức chỉ đạo sinh hoạt chuyên môn theo hình thức đổi mới, tôi cùng hiệu phó phụ trách chuyên môn tổ chức buổi sinh hoạt chuyên môn làm mẫu. Trong buổi sinh hoạt chuyên môn này tổ trưởng không đọc cho giáo viên chép mà đưa ra các câu hỏi cho giáo viên suy nghĩ và trả lời. Yêu cầu tất cả các đồng chí giáo viên trong tổ suy nghĩ và đưa ra ý kiến cá nhân. (Hình ảnh họp tổ chuyên môn của giáo viên) Người điều hành buổi sinh hoạt chuyên môn có thể ứng dụng công nghệ thông tin, trình chiếu, chia sẻ những cách làm hay, những nội dung mới cho giáo viên trong tổ cùng nhau trao đổi, thảo luận và đưa ra ý kiến. Qua mỗi buổi sinh hoạt chuyên môn như vậy, giáo viên được trình bày quan điểm cá nhân và khắc sâu hơn những kiến thức cần thiết. (Hình ảnh ứng dụng công nghệ thông tin trong họp tổ chuyên môn) Cần phải giúp giáo viên nhận thức sâu sắc về sự cấn thiết của các buổi sinh hoạt chuyên môn. Coi đây là quyền lợi, là nghĩa vụ mà mỗi người giáo viên cần phải làm tốt để đáp ứng được đòi hỏi của công tác giáo dục ngày càng cao. Chỉ đạo các tổ trưởng xây dựng kế hoạch dự giờ có phê duyệt của Ban giám hiệu, các thành viên trong tổ chuyên môn sau khi dự giờ xong, tổ chức rút kinh nghiệm một cách tỉ mỉ, cụ thể về cách tổ chức, hình thức lên lớp, giáo viên đã tổ chức tiết học như thế nào? nhận xét cần đi sâu vào các phương pháp, kiến thức chuyên môn trên tinh thần tôn trọng, giúp nhau đổi mới mang lại hiệu quả cao trong giảng dạy, tránh định kiến cá nhân, phê bình, góp ý những vấn đề thiếu sót vụn vặt, mà không nhìn thấy những cố gắng tốt, hiệu quả thiết thực trong giáo viên dạy đã sử dụng truyền đạt, cần tìm ra những kinh nghiệm tốt để tuyên dương điển hình nhân rộng. Với cách tổ chức sinh hoạt chuyên môn như trên giáo viên vừa được rút kinh nghiệm vừa được đưa ra những ý tưởng mới lạ kích thích trẻ tham gia hoạt động đạt hiệu quả. Ví dụ: Tôi luôn bố trí các phó hiệu trưởng tham gia sinh hoạt chuyên môn chung với các tổ chyên môn, qua đó kiểm tra đánh giá hoạt động chuyên môn của các tổ chuyên môn một cách thường xuyên, nắm được những thông tin cơ bản về thực trạng hoạt động của các tổ chuyên môn. Từ đó sẽ có những chỉ đạo kịp thời, kịp thời uốn nắn những lệch lạc, khuyến khích hỗ trợ những sáng kiến hay, bảo đảm thực hiện tốt mục tiêu giáo dục đã đề ra. Sự phối kết hợp nhịp nhàng, đồng thuận và thống nhất trong chuyên môn giữa nhà trường với các tổ trưởng và giáo viên có hiệu quả trong việc nâng cao chất lượng sinh hoạt chuyên môn với mục đích cuối cùng là trẻ được giáo dục một cách tốt nhất và đạt mục tiêu giáo dục trong chương trình giáo dục mầm non hiện nay. 3.5. Bồi dưỡng năng lực chuyên môn cho giáo viên 3.5.1.Tăng cường công tác kiểm tra, dự giờ thăm lớp Công tác dự giờ, thăm lớp là hoạt động chuyên môn thường xuyên của tổ chuyên môn và mỗi cá nhân nhằm: Tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên làm sâu sắc, phong phú thêm nội dung giảng dạy, đổi mới phương pháp, tăng cường trao đổi kinh nghiệm, học tập, giúp đỡ lẫn nhau trong việc nâng cao trình độ chuyên môn, tình cảm và trách nhiệm nghề nghiệp. Ngoài việc nắm vững kiến thức chuyên môn trên lý thuyết thì vấn đề về kỹ năng sư phạm lại rất cần thiết bởi qua đây giáo viên thực hiện trực tiếp truyền tải kiến thức bằng điệu bộ, cử chỉ, ánh mắt, các kỹ năng về tổ chức thu hút trẻ tham gia tích cực vào các hoạt động sẽ đem lại hiệu quả cao cho giờ học. Chính vì vậy qua tổ chức dự giờ thăm lớp sẽ giúp giáo viên có thêm kinh nghiệm sau khi được góp ý bồi dưỡng của người dự giờ, đồng thời giáo viên cũng sẽ tự nhận ra những điểm hạn chế và những tồn tại của mình trong giờ dạy, bên cạnh đó giáo viên sẽ có được kỹ năng lên lớp, mạnh dạn, tự tin hơn trong các giờ dạy tiếp theo. (Hoạt động dự giờ của giáo viên) Đầu tháng bộ phận chuyên môn xây dựng kế hoạch cụ thể cho việc dự giờ thăm lớp, xây dựng các tiêu chí kỹ năng sư phạm để đối chiếu góp ý xây dựng cho giáo viên đạt hiệu quả hơn. Ví dụ: Xây dựng các kỹ năng: Kỹ năng nói truyền đạt cho trẻ; kỹ năng về phong cách, điệu bộ, cử chỉ; kỹ năng gây hứng thú thu hút trẻ; kỹ năng xử lý tình huống; kỹ năng sáng tạo; kỹ năng tổ chức các hình thức phong phú;… Ban giám hiệu nắm bắt kịp thời năng lực của từng giáo viên thông qua hoạt động kiểm tra, dự giờ, thăm lớp, qua đó có các giải pháp phát huy những điểm mạnh, bồi dưỡng những hạn chế cho đội ngũ nhằm nâng cao chất lượng cho đội ngũ giáo viên trong nhà trường. Câu nói của người xưa “ Học thầy không tày học bạn” qua các đợt sinh hoạt chuyên môn cụm tôi luôn tạo điều kiện cho giáo viên được tham gia dự giờ, học hỏi kinh nghiệm của giáo viên trường bạn những cái hay, sáng tạo để bồi dưỡng thêm cho trường mình. Ví dụ: Năm học 2024- 2025 tôi chọn cử giáo viên tham gia sinh hoạt chuyên môn các trường bạn trong huyện, qua các buổi tham quan, sinh hoạt đều quay video lại về tổ chức phát lại cho giáo viên toàn trường xem thảo luận rút kinh nghiệm. Thực hiện tốt công tác dự giờ thăm lớp tôi nhận thấy sự thay đổi rõ nét về chuyên môn của trường. Giáo viên thể hiện được năng lực chuyên môn, kỹ năng sư phạm của các cô thực sự ngày một nâng cao. Các hoạt động lồng ghép nội dung giáo dục, tích hợp nhiều lĩnh vực đặc biệt là các chuyên đề phù hợp với từng độ tuổi, kỹ năng, năng lực chuyên môn của giáo viên được khẳng định, kết quả trẻ đạt rất cao. Để làm tốt trong công tác bồi dưỡng đội ngũ giáo viên trong nhà trường không thể lơ là trong trong tác kiểm tra, đánh giá việc thực hiện các hoạt động của giáo viên. Trong công tác kiểm tra đảm bảo tính khách quan và công khai, công bằng và dân chủ. Sau kiểm tra phải có những nhận xét đánh giá chính xác, phân tích các ưu điểm, tồn tại của giáo viên để giúp họ phát huy những mặt mạnh, khắc phục những hạn chế áp dụng vào thực tế chăm sóc giáo dục trẻ. 3.5.2. Bồi dưỡng thông qua tổ chức các hội thi. Tổ chức các Hội thi cho giáo viên là một giải pháp bồi dưỡng nâng cao năng lực chuyên môn, kỹ năng sư phạm, tạo cơ hội để giáo viên được nghiên cứu, được sáng tạo, được học tập kinh nghiệm. Vì khi tham gia hội đòi hỏi giáo viên phải đầu tư công sức, nghiên cứu nội dung chương trình, tìm ra hình thức, phương pháp linh hoạt, sáng tạo để thu hút sự hứng thú của trẻ khi tham gia vào các hoạt động. Đồng thời, giáo viên phải tự nghiên cứu, sưu tầm các phương tiện, sáng tạo đồ dùng đồ chơi phục vụ cho hoạt động dự thi tạo sự mạnh dạn tự tin vượt qua chính mình tham gia tốt các hội thi. Qua các Hội thi tôi đều ghi lại hình ảnh các hoạt động được các cô thiết kế, tổ chức sáng tạo, hiệu quả giáo dục cao gửi lên nhóm Zalo của trường để tất cả giáo viên được xem và được diễn tả lại trong các kỳ sinh hoạt chuyên môn. (Hình ảnh giáo viên thi đua dạy tốt) Phong trào thi đua dạy tốt lập thành tích chào mừng Ngày Nhà giáo Việt Nam có 09/11giáo viên tham gia đạt 7 giáo viên tỷ lệ 77.77% (Hình ảnh minh họa dự thi cấp huyện) Tham gia Hội thi “Thiết kế hoạt động lấy trẻ làm trung tâm” cấp huyện với sự quyết tâm phấn đấu, không ngừng sáng tạo, tự tin lên lớp, kết quả đạt trường có 03 giáo viên dự thi đạt 3/3 giáo viên tỷ lệ 100%. (Hình ảnh Hội thi “Bé với an toàn giao thông) Tổ chức Hội Thi “Bé với an toàn giao thông” cấp trường nhằm tổng kết Chương trình “Tôi yêu Việt Nam”, qua đó nâng cao khả năng sáng tạo, biên đạo của các cô. Qua kết quả trên cho thấy năng lực chuyên môn của giáo viên đang phát triển tốt. Không chỉ chú trọng về chuyên môn tôi đã chủ động tổ chức các hội thi cho giáo viên nhằm bổ trợ cho việc nâng cao chất lượng chuyên môn của giáo viên như: Hội thi “ Xây dựng môi trường giáo dục an toàn, thân thiện theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm”, Hội thi “Đồ dùng đồ chơi sáng tạo” cấp trường, qua hội thi này giáo viên phát huy được kỹ năng sáng tạo, kỹ năng khai thác sử dụng đồ dùng đồ chơi, thiết bị dạy học linh hoạt, hiệu quả. Đồ dùng đồ chơi sáng tạo góp phần phong phú hơn bài dạy của giáo viên, trẻ được khám phá trải nghiệm thao tác với đồ dùng tư duy của trẻ phát triển nhanh hơn. ( Hình ảnh hội thi “Đồ dùng Đồ chơi sáng tạo) 3.6. Xây dựng tập thể sư phạm đoàn kết Đoàn kết là chìa khóa của thành công, một tập thể đoàn kết thân ái luôn là tập thể mạnh, sự nhất trí của một tập thể sư phạm là yếu tố quyết định thành công của nhà trường. Do đó, muốn xây dựng tập thể đoàn kết thì mỗi cán bộ quản lý phải là trung tâm xây dựng khối đoàn kết trong nhà trường. Là người đứng đầu của tập thể, tôi luôn xác định muốn có một tập thể đoàn kết thì phải xây dựng đội ngũ Ban giám hiệu đoàn kết. Ban giám hiệu cũng là những người xử lý công việc chính của nhà trường, nếu đội ngũ này không đoàn kết thì xử lý công việc khó thành công. Ở đây, người Hiệu trưởng là con chim đầu đàn, thể hiện qua những lời nói, việc làm đầy trách nhiệm và gương mẫu đi đầu, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trong công việc để mọi người noi theo. Thể hiện đoàn kết trong Ban giám hiệu từ những việc làm và lời nói cụ thể như trước khi chuẩn bị một kế hoạch gì lớn hoặc giải quyết một công việc gì nếu biết trước thì Hiệu trưởng là người định hướng. Sau đó mời họp Ban giám hiệu để cùng tham khảo ý kiến. Phó Hiệu trưởng sẽ đưa ra nhiều cách giải quyết khác nhau dù đúng hay không đúng ý của mình cũng ghi nhận sau đó hiệu trưởng phân tích và chốt lại cách xử lý sau khi tham khảo ý kiến. Qua việc làm trên khi có tham khảo ý kiến nhưng Hiệu trưởng quyết ý chốt lại, có thể không trùng ý với Phó hiệu trưởng nhưng qua đó tâm lý người Phó hiệu trưởng cũng được thoải mái hơn. Vì khi thông qua Ban giám hiệu vừa giúp Hiệu trưởng ghi nhận được ý kiến, vừa giúp chị em cùng thông hiểu một kế hoạch lớn mà Hiệu trưởng sắp triển khai và đã được bàn bạc, phân tích kỹ lưỡng và hiểu vì sao Hiệu trưởng lại chọn theo cách giải quyết như vậy, các cô Phó hiệu trưởng vui vẻ tiếp nhận và cùng chung ý tưởng,.. Khi đã bàn bạc trong Ban giám hiệu trước rồi mới triển khai trong Hội đồng sư phạm thì dù việc lớn hay nhỏ, chắc chắn sẽ được đồng thuận cao hơn vì ít nhất cũng có Phó hiệu trưởng hiểu vấn đề đó để lý giải cho giáo viên, nhân viên và người lao động cùng hiểu rõ. Còn nếu như không có sự bàn bạc thống nhất trước, khi triển khai nhiệm vụ có thể sẽ gặp một số phản kháng, đặc biệt không chỉ là giáo viên, nhân viên mà còn có cả Ban giám hiệu, như vậy vô tình lãnh đạo nhà trường có tác động xấu cho đội ngũ giáo viên, nhân viên. Ngoài ra tôi thường dành thời gian trò chuyện, thăm hỏi nắm bắt tâm tư nguyện vọng về đời tư, hoàn cảnh gia đình, sức khỏe, diễn biến tâm lý,… của cán bộ, giáo viên và nhân viên. Từ đó tạo điều kiện cho các đồng chí phát huy mặt mạnh, năng lực chuyên môn, năng khiếu sẵn có của mình linh động trong từng hoàn cảnh. Tôi luôn quan tâm thực hiện tốt công tác thăm hỏi cán bộ, giáo viên, nhân viên gặp hoàn cảnh khó khăn, bố trí những giáo viên có con lớn giúp đỡ giáo viên có con nhỏ, mang thai,… Chăm lo đời sống vật chất tinh thần cho đội ngũ giáo viên là một vấn đề quan trọng trong chính sách phát triển nhà trường, chăm lo tốt đời sống vật chất, tinh thần cho đội ngũ là điều kiện cần thiết quyết định chất lượng giáo dục và đào tạo. Nhà trường phối hợp với công đoàn luôn quan tâm, chăm lo cho đội ngũ ổn định cuộc sống; thường xuyên động viên thăm hỏi, giúp đỡ giáo viên có hoàn cảnh khó khăn, ốm đau, thai sản, tai nạn, rủi ro, thiên tai…Ngoài ra nhà trường còn tạo điều kiện, phân công bố trí lao động phù hợp, tạo cơ hội cho giáo viên phát triển toàn diện về mọi mặt. Điểm mới của giải pháp: Là giải tỏa áp lực cho giáo viên sau những giờ làm việc, tạo sự gắn kết giữa giáo viên với giáo viên, giữa giáo viên với Ban giám hiệu nhà trường. . Tổ chức các buổi họp mặt cho tập thể sư phạm trường nhân các ngày lễ lớn, tạo cho các cô có thời gian thư giãn, chia sẻ, trò chuyện cùng nhau là một trong những giải pháp rất hữu hiệu. Điều tôi luôn quan tâm trong các buổi họp mặt nói đến các vấn đề như công tác chuyên môn, trường, lớp, có như vậy các cô mới được vui cười thoải mái. Trong những buổi họp mặt như thế, tôi tiếp nhận được rất nhiều sự chia sẻ và tâm tư nguyện vọng của các cô để có hướng điều chỉnh cách quản lý của mình cho phù hợp, tạo động lực thúc đẩy các cô không ngừng phấn đấu vươn lên. Đây tưởng chừng như những việc làm rất đơn giản, nhưng đã đem lại hiệu quả rất lớn vì khi không còn áp lực, vui vẻ thoải mái các cô sẽ bộc lộ hết khả năng tư duy và sáng tạo của mình. Năm 2024 trường tôi đã có giáo viên nhận Bằng khen củ UBND tỉnh và có 07 Chiến sĩ thi đua cấp cơ sở. (Phong trào chào mừng ngày 20.10) (Hình ảnh tổ chức họp mặt ngày Quốc tế phụ nữ và ngày Quốc tế hạnh phúc) (Hình ảnh họp mặt ngày 20/11, giáo viên nhận Bằng khen của UBND tỉnh) Bên cạnh đó nhà trường phối hợp tốt với các tổ chức đoàn thể trong đơn vị thường xuyên tổ chức các hoạt động ngoại khóa để các chị em có dịp giáo lưu tình cảm với nhau sau những ngày làm việc vất vả và nhưng lo toan bộn bề trong cuộc sống hàng ngày. Những lúc này mọi người thấy mình được thoải mái vui chơi, được cười nói gắn kết các thành viên trong nhà trường, không có sự ngăn cách giữa lãnh đạo và giáo viên, nhân viên. (Đoàn viên và các cháu đến thăm Doanh trại bộ đội) Ở bất cứ một tập thể nào cũng vậy, bên cạnh những đồng chí nhanh nhẹn, tháo vát, trình độ chuyên môn tốt vẫn còn số ít đồng chí còn hạn chế về năng lực, ngại giao tiếp. Ở trường tôi cũng vậy ngay từ đầu năm học tôi phải sắp xếp có sự xen kẽ những đồng chí tháo vát, năng lực tốt với những đồng chí còn hạn chế về chuyên môn để giúp đỡ nhau cùng nhau tiến bộ. Hoặc tạo điều kiện cho các đồng chí được thử sức mình qua các hoạt động, để thoát ra những rào cản của bản thân mình để phát triển vươn lên cùng đồng nghiệp. 3.7. Tăng cường công tác bồi dưỡng ứng dụng công nghệ thông tin để nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ (giải pháp mới). Giáo viên có xu hướng sử dụng những sản phẩm và phần mềm trò chơi lập trình có sẵn hơn các sản phẩm tự thiết kế. Những sản phẩm này nhìn đẹp thu hút trẻ nhưng có lúc không phù hợp với ý tưởng, mục tiêu bài dạy của giáo viên. Xuất phát từ thực trạng trên cho thấy, việc bồi dưỡng kỹ năng thiết kế, ứng dụng công nghệ thông tin cho giáo viên là rất cần thiết nâng cao hiệu quả giảng dạy của giáo viên. Thực hiện giải pháp này giúp trẻ hứng thú hơn trong các hoạt động, giáo viên được nâng cao nǎng lực chuyên môn, giáo viên linh hoạt, sáng tạo hơn tạo cho trẻ hứng thú tham gia các hoạt động và tiếp thu kiến thức một cách chủ động, nhằm đem lại một hiệu quả cao cho bài dạy. Bên cạnh đó, ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học còn giúp giáo viên có thể chia sẻ bài giảng với đồng nghiệp, cùng nhau thảo luận tìm ra giải pháp tốt hơn. * Tổ chức bồi dưỡng qua các buổi sinh hoạt chuyên môn, tập huấn chuyên đề. Nội dung bồi dưỡng cần hướng dẫn tập trung vào thực hành một số kĩ thuật thiết kế phù hợp với đặc trưng trong giáo dục mầm non và nâng cao dần các kĩ thuật cũ theo hướng kết hợp thêm kĩ thuật mới, không đi theo hướng cung cấp nhiều kĩ thuật mà không có sự kết nối. * Tổ chức bồi dưỡng kỹ thuật thiết kế ứng dụng thông qua hoạt động dự giờ. Xây dựng bài dạy cho hoạt động dự giờ có ứng dụng CNTT, bộ phận chuyên môn phải có sự đầu tư về ý tưởng thiết kế, kĩ thuật thiết kế các trò chơi, ứng dụng các phần mềm công nghệ phù hợp với trẻ, với mục tiêu bài dạy để minh họa bồi dưỡng cho giáo viên. Dự giờ đồng nghiệp là hình thức bồi dưỡng tạo cơ hội trải nghiệm các ý tưởng thiết kế, các ứng dụng phần mềm và cách sử dụng sản phẩm minh họa dưới nhiều hình thức khác nhau. Ví dụ: Thiết kế hoạt cho trẻ làm quen với chữ cái, giáo viên sử dụng công nghệ Al (Trí tuệ nhân tạo) để thiết kế hiệu ứng chữ cái, chữ cái biết nói, biết phát âm biết yêu cầu trẻ làm theo luôn tạo sự hứng thú tò mò, thu hút khả năng chú ý và phát triển tư duy cho trẻ. Dụng cụ trực quan minh họa cho ý tưởng thiết kế không chỉ được làm từ các nguyên vật liệu khác nhau, hình ảnh cô giáo và trẻ sau màn chiếu bóng đã trở thành một công cụ truyền đạt kiến thức cho trẻ rất hữu hiệu. Ví dụ: Trong giờ dạy trẻ phát triển tình cảm xã hội với chủ đề "Trường mầm non" giáo viên sử dụng minh họa trực quan là cô và trẻ sau màn chiếu bóng, qua màn chiếu hình ảnh cô và trẻ được chiếu lên các động tác dịu dàng, sống động, thân quen rất thu hút trẻ. ( Hình ảnh minh họa cho các hoạt động dự giờ có ứng dụng CNTT) Năm học này trường được dạy minh họa 02 hoạt động trong buổi sinh hoạt chuyên môn do huyện tổ chức. Trong quá trình chuẩn bị thiết kế 02 hoạt động giáo dục, giáo viên được nêu ý tưởng thiết kế, kỹ thuật thiết kế, chia sẻ kỹ thuật ứng dụng công nghệ vào bài giảng làm sao cho bóng hiện rõ, không bị nhòe, thông qua kỹ thuật lựa chọn thiết bị chiếu sáng, kỹ năng biểu diễn rối. ( Hình ảnh ứng dụng công nghệ chiếu bóng qua màn ảnh) * Khuyến khích và tạo điều kiện cho giáo viên tự bồi dưỡng nâng cao ý tưởng, kỹ thuật thiết kế và ứng dụng vào trong bài dạy Tôi tìm hiểu sưu tầm các nguồn tài liệu có liên quan để giới thiệu cho giáo viên nghiên cứu, khai thác và áp dụng trong thiết kế bài giảng, xây dựng kế hoạch,… Giáo viên đọc sách “Giáo trình photosop 7.0, thủ thuật làm ảnh động trên photosop” để có kiến thức cắt, chỉnh sửa ảnh, làm ảnh động, thao tác với các phần mềm trên mạng internet để biết cách cắt, ghép nhạc, video nhờ phần mềm cắt, ghép nhạc và chỉnh sửa nhạc trực tuyến. Một số trang web hỗ trợ đắc lực cho giáo viên mầm non trong việc thiết kế các bài giảng điện tử là: giaovien.net, dayhocintel.net, Violet.vn, tailieu.vn, website thietbimamnonhavu.com...Ngoài ra để thực hiện tốt công tác bồi dưỡng tôi tự học hỏi tự bồi dưỡng sử dụng tốt các phần mềm cơ bản như: + Microsoft Word: Phần mềm soạn thảo văn bản, dùng để soạn công văn, báo cáo, kế hoạch và tất cả các loại văn bản khác. Tôi có thể dùng kiểm tra giáo án, kế hoạch,... vừa ứng dụng vào trong công tác quản lý của mình. + Microsoft Excel: Phần mềm tạo bảng tính để xây dựng các chi phí tài chính hoặc lưu trữ, thống kê số liệu CB, GV, NV và học sinh, .... Excel mạnh ở điểm là có thể dựa vào những phương pháp tính toán, thống kê tùy ý một cách rất dễ dàng và chính xác, giúp cho người quản lý, giáo viên tiết kiệm được thời gian. + Sử dụng hiệu quả phần mềm Powerpoint Với phần mềm này chúng ta có thể sử dụng cho tất cả các hoạt động: Khám phá khoa học, làm quen với toán, hoạt động âm nhạc, thơ, truyện, làm quen chữ cái, tạo hình... 4. Kết quả Trong suốt quá trình nghiên cứu và áp dụng các biện pháp nêu trên, tôi quan sát nhận thấy sự tiến bộ rõ rệt của giáo viên, chất lượng của đội ngũ giáo viên ngày càng được nâng lên, công tác chăm sóc giáo dục trẻ đạt hiệu quả ngày càng cao thể hiện qua kết quả khảo sát sau khi áp dụng đề tài Khảo sát chất lượng giáo viên sau khi thực hiện đề tài ( số lượng 13 giáo viên, có 02 giáo viên mới tuyển dụng vào tháng 12/2024 STT Nội dung Tốt Khá Trung bình Số GV Tỷ lệ % Số GV Tỷ lệ % Số GV Tỷ lệ % 1 Nắm vững chương trình chăm sóc, giáo dục trẻ theo độ tuổi 9 69.2 3 23.1 1 7.7 2 Hình thức tổ chức các hoạt động linh hoạt, sáng tạo 9 69.2 4 30.8 0 3 Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy và học 10 76.9 2 15.4 1 7.7 4 Tạo môi trường hoạt động cho trẻ phong phú, hấp dẫn thiết kế theo hướng mở thu hút trẻ. 10 76.9 3 23.1 0 5 Tự tin khi lên lớp 9 69.2 3 23.1 1 7.7 Khảo sát chất lượng trẻ sau khi thực hiện đề tài ( số lượng 163 trẻ) STT Nội dung Số trẻ đạt Tỷ lệ % Số trẻ chưa đạt Tỷ lệ % 1 Trẻ nắm vững kiến thức, kỹ năng vận dụng linh hoạt, sáng tạo trong các hoạt động 139 85.3 24 14.7 2 Trẻ hứng thú tham gia các hoạt động 151 92.6 12 7.4 3 Trẻ mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp với người lớn 155 95.1 8 4.9 Từ kết quả trên cho thấy, qua việc vận dụng các giải pháp trên đã làm thay đổi cơ bản về chất lượng đội ngũ giáo viên trong lĩnh vực chuyên môn, rất nhiều giáo viên đã nắm vững kiến thức chuyên môn, kỹ năng lên lớp bình tĩnh, tự tin, linh hoạt và biết tạo cơ hội cho trẻ trải nghiệm, khám phá,…đặt biệt là ý thức trách nhiệm, tinh thần đoàn kết thể hiện rõ nét trong môi trường giáo dục. Môi trường giáo dục đã được giáo viên chủ động trang trí theo chủ đề và theo quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm, trẻ đã được cùng cô trang trí và khám phá trải nghiệm về môi trường đó. Về phía nhà trường chất lượng đội ngũ đã được nâng lên rõ rệt, các hoạt động chăm sóc giáo dục được thực hiện nghiêm túc, công tác thi đua trong nhà trường trở nên sôi nôi lành mạnh. Chính vì thế, nhà trường đã tạo được lòng tin lớn trong các bậc phụ huynh và công tác xã hội hóa giáo dục đã được thay đổi, thu hút được rất nhiều các cấp các ngành và các cá nhân trên địa bàn quan tâm ủng hộ và đầu tư về cơ sở vật chất trong nhà trường. Đối với bản thân tôi, sau khi áp dụng đề tài nghiên cứu này nó có ý nghĩa rất lớn đối với tôi, bởi qua nghiên cứu và thực hiện đề tài giúp tôi có được kỹ năng trong công tác quản lý, hiểu và nắm bắt rõ ràng về điểm mạnh và điểm yếu của đội ngũ giáo viên mình cũng như chất lượng chuyên môn của nhà trường, giúp tôi có thêm được những kiến thức qua thực tế của đề tài, biết được việc xây dựng kế hoạch và thực hiện theo kế hoạch một cách khoa học và linh hoạt sáng tạo để nhằm đạt được hiệu quả trong công tác quản lý chuyên môn và các hoạt đông khác. Qua đây chúng ta hiểu rõ hơn nữa việc bồi dưỡng cho giáo viên, đội ngũ trực tiếp chăm sóc giáo dục trẻ phải được quan tâm để nâng cao chất lượng hàng đầu, chất lượng đội ngũ được nâng lên, chất lượng trong nhà trường sẽ nâng lên. III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 1. Kết luận Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói “Không có thầy thì không có giáo dục”, điều đó đã khẳng định vai trò của đội ngũ giáo viên vô cùng quan trọng trong sự nghiệp trồng người, là yếu tố cơ bản quyết định trong việc phát triển giáo dục. Vì vậy, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo có ý nghĩa to lớn và quan trọng trong sự nghiệp đổi mới giáo dục, là điều kiện cơ bản để phát triển nguồn lực con người. Xây dựng bồi dưỡng nâng cao năng lực của giáo viên là vấn đề cấp bách và cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Qua nghiên cứu có thể khẳng định rằng chúng ta muốn phát triển nhà trường lên một tầm cao mới, trước tiên phải có đội ngũ sư phạm tâm huyết với nghề, giỏi về chuyên môn, vững về nghiệp vụ, có tin thần trách nhiệm cao trong công việc. Muốn vậy, trước hết người cán bộ quản lý phải vững vàng về chuyên môn nghiệp vụ, có năng lực tổ chức điều hành các hoạt động của nhà trường. Người giáo viên phải có tinh thần học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực của bản thân, luôn tu dưỡng rèn luyên phẩm chất đạo đức, yêu nghề, mến trẻ, có trách nhiệm cao đối với công việc, phải đổi mới, sáng tạo và áp dụng một cách linh hoạt. Thực hiện nghiêm túc các hoạt động chăm sóc và giáo dục trẻ, đúng kế hoạch, đảm bảo cho các cháu được học tập, vui chơi đúng chương trình. Giáo viên phải nắm bắt được tâm sinh lý, khả năng nhận thức của trẻ lớp mình, để lựa chọn hình thức tổ chức, phương pháp giáo dục cho phù hợp. Bồi dưỡng giáo viên là nhiệm vụ trọng tâm của mỗi trường học, là việc làm thường xuyên và là trách nhiệm của người làm công tác quản lý. Muốn công tác bồi dưỡng đội ngũ tốt thì đòi hỏi người cán bộ quản lý phải có “Tâm” có “Tầm” có năng lực chuyên môn vững vàng, sáng tạo, tâm huyết, say mê với nghề nghiệp, luôn quan tâm đến công tác phát triển nhà trường. Giúp giáo viên biết linh hoạt sáng tạo trong việc thiết kế các hình thức tổ chức hoạt động cho trẻ, lồng ghép tích hợp các nội dung phù hợp. Bồi dưỡng năng lực giáo viên biết sáng tạo, sưu tầm những trò chơi mới, sử dụng công nghệ thông tin vào tổ chức hoạt động cho trẻ, sẽ tạo ra những điều mới lạ. kích thích tính tò mò hứng thú của trẻ, hiệu quả của tiết học sẽ cao hơn. Tăng cưòng công tác kiểm tra đánh giá chất lượng giáo viên để phát huy những mặt mạnh, khắc phục những mặt còn hạn chế. Trước yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay, đổi mới toàn diện phát triển theo hướng công nghiệp hóa- hiện đại hóa. Để đáp ứng nhiệm vụ đó đòi hỏi phải có một đội ngũ giáo viên ngang tầm, đủ năng lực, trí tuệ, phẩm chất "Là con thuyền cách mạng" đến "Bên bờ thắng lợi", chỉ có sự nghiệp giáo dục mới bồi dưỡng được đội ngũ nhân lực đủ tài và đủ sức để thực hiện thắng lợi công nghiệp hóa; hiện đại hóa đất nước. 2. Kiến nghị - Cơ quan lãnh đạo cấp trên tổ chức cho đội ngũ cán bộ quản lý mầm non được tham quan học tập kinh nghiệm ở các trường mầm non trong và ngoài tỉnh. Xác nhận của đơn vị Người viết Phạm Thị Phi Pha Trần Thị Kim Nhiên TÀI LIỆU THAM KHẢO - Thông tư số 51/2020/TT-BGDĐT ngày 31/12/2020 sửa đổ, bổ sung Chương trình Giáo dục mầm non. - Thông tư số 11/2019/TT-BGDĐT ban hành tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho CBQLMN. - Thông tư số 12/2019/TT-BGDĐT ban hành tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho GVMN. - Giáo trình photosop 7.0, thủ thuật làm ảnh động trên photosop. - Tạp chí Giáo dục Xã hội tháng 3/2025 (kì 1). -
“Biện pháp xây dựng lớp học hạnh phúc cho trẻ 5 - 6 tuổi trong trường mầm non”. TG: Nguyễn Thị Thúy Duy
21/05/2025I. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài, sáng kiến Trong hệ thống giáo dục quốc dân cấp học mầm non là cấp học đầu tiên, giữ vai trò hết sức quan trọng trong việc phát triển toàn diện cho trẻ. Bác Hồ có câu: “Trẻ em là tương lai của đất nước” nhằm để có thế hệ tương lai đủ đức, đủ tài, đủ năng lực. Từ khi còn nhỏ việc giáo dục luôn là vấn đề quan trọng và luôn đi đầu. Ngôi trường mầm non là ngôi trường đầu tiên đối với trẻ. Vào đầu năm học 2024 - 2025 “Trường mầm non hạnh phúc” được áp dụng vào các trường mầm non trên địa bàn huyện. Để xây dựng trường học hạnh phúc đúng nghĩa, theo Nguyên Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phùng Xuân Nhạ từng nhấn mạnh gồm ba tiêu chí quan trọng để xây dựng trường học hạnh phúc, đó là: Yêu thương, an toàn và tôn trọng; đồng thời xác định hoạt động nâng cao năng lực ứng xử sư phạm, đạo đức người giáo viên là yếu tố quyết định để xây dựng một ngôi trường hạnh phúc. Khi xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu xã hội ngày càng cao, việc xây dựng trường học hạnh phúc ngày càng trở nên quan trọng hơn. Khi xây dựng trường học hạnh phúc thì giáo viên và trẻ cảm thấy vui vẻ, thoải mái, hứng thú trong việc dạy và học của mình. Tạo điều kiện để trẻ phát triển và hạnh phúc hơn, được là chính mình. Khi mọi người tìm được niềm vui, niềm hạnh phúc sẽ thấy chân lý và sẽ tự điều chỉnh bản thân mình. Môi trường để tổ chức “Lớp học hạnh phúc” phải đảm bảo ba tiêu chí: An toàn, yêu thương và tôn trọng. Tức là trẻ phải được đảm bảo an toàn cả về thể chất lẫn tinh thần, mỗi đứa trẻ đều được yêu thương và đối xử công bằng với nhau, đều được nói lên những ý kiến của mình và luôn được cô và các bạn lắng nghe, tôn trọng. Ở lớp trẻ em có hạnh phúc, vui vẻ thì trẻ mới có thể tiếp thu được tốt các kỹ năng, kiến thức mà cô giáo dạy. Nhờ vậy, trẻ được phát triển toàn diện cả về thể chất, trí tuệ lẫn tinh thần, chất lượng giáo dục mới được nâng cao. Tôi nhận thức rõ ý nghĩa và tầm quan trọng với việc xây dựng lớp học hạnh phúc, tôi bắt đầu từ những điều nhỏ nhất từ những khát khao được gieo niềm hạnh phúc của người giáo viên khi đến lớp: Trẻ được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, được bảo vệ, được tôn trọng và được tham gia vào các hoạt động vui chơi và học tập thì trẻ mới phát triển toàn diện về mọi mặt được. Tôi luôn nghĩ phải làm thế nào để “Mỗi ngày đến trường đều trở thành một ngày thật hạnh phúc đối với trẻ”, để tìm ra các giải pháp phù hợp để khắc phục tồn tại hiện có và thực hiện hiệu quả phong trào thi đua, góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc và giáo dục trẻ ngày một tốt hơn. Vì thế, trong năm học 2024 - 2025 này tôi mạnh dạn thực hiện đề tài: “Biện pháp xây dựng lớp học hạnh phúc cho trẻ 5 - 6 tuổi trong trường mầm non” nhằm tìm các giải pháp tốt nhất để khắc phục. 2. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài, sáng kiến Từ việc tìm hiểu thực trạng các lớp mầm non hiện nay, tôi đã hiểu và tiến hành phân tích nguyên nhân dẫn đến việc trẻ ngại nói lời yêu thương, thể hiện tình cảm kém còn rụt rè, nhút nhát. Từ đó, tôi đưa ra các giải pháp để xây dựng lớp học hạnh phúc cho trẻ. Giúp cho trẻ vui vẻ, hạnh phúc khi đến trường, đến lớp. Giáo dục trẻ vể tình cảm, đạo đức, giúp trẻ hứng thú, tích cực hơn khi tham gia các họat động. Giáo viên trở nên yêu nghề, mến trẻ, thành công trong sự nghiệp trồng người. Giúp giáo viên thành công trong công việc xây dựng trường học, lớp học hạnh phúc. Nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Đề tài “Biện pháp xây dựng lớp học hạnh phúc cho trẻ 5 - 6 tuổi trong trường mầm non” tôi đã tiến hành nghiên cứu, áp dụng tại lớp Lá 2 của trường Mầm non Rạng Đông vào đầu năm học 2024 - 2025. Với phạm vi này tôi dễ dàng quan sát trẻ hằng ngày và nhận định được sự chuyển biến của trẻ trong quá trình thực hiện. II. NỘI DUNG 1. Cơ sở lý luận Hạnh phúc có ý nghĩa lớn đối với mỗi con người chúng ta, đặc biệt là đối với trẻ nhỏ. Trẻ được sống hạnh phúc trong môi trường gia đình và cũng cần được hạnh phúc trong môi trường xã hội đầu tiên chính là môi trường trường học. Vậy lớp học phải là lớp học hạnh phúc là nơi trẻ được yêu thương, tôn trọng và an toàn. Một lớp học hạnh phúc phải là điểm đến thân thiện và vui vẻ cho trẻ, là môi trường giáo dục hoàn hảo, tạo cho trẻ tâm lí thoải mái cho trẻ đến lớp, là nơi cả cô và trẻ đều có cảm giác vui tươi, thích thú khi được đến lớp. Lớp học hạnh phúc không được áp đặt trẻ theo khuôn mẫu mà đóng vai trò định hướng để trẻ được làm những gì trẻ yêu thích và say mê. Ở đó, trẻ được học những gì có ý nghĩa, được khơi gợi niềm yêu thích thông qua các trò chơi và những trải nghiệm. Để có một lớp học hạnh phúc cần chú trọng xây dựng những giá trị nhân văn và những chuẩn mực hành xử tích cực như: Chuẩn mực giữa cô và trò, giữa cô với phụ huynh. Đặc điểm trẻ ở lứa tuổi mầm non này là “Học bằng chơi, chơi mà học” nên việc xây dựng môi trường lớp học phải thực sự hấp dẫn với trẻ. Môi trường phải áp dụng nhiều phương pháp học tập linh hoạt, hiện đại nhằm kích thích tư duy tìm tòi, khám phá, sáng tạo ở trẻ. Môi trường giáo dục phải đảm bảo an toàn về thể chất và tinh thần. Môi trường giáo dục phát triển, an toàn và lành mạnh tạo cho trẻ cảm giác vui vẻ, hạnh phúc khi đến trường. Ở trường trẻ đều có một tâm lý, tính cách khác nhau. Cô cần phải tôn trọng sự khác biệt giữ các trẻ với nhau vì những sự khác biệt ấy mới tạo nên sự đa dạng trong nhân trẻ. Môi trường học tập sẽ hạnh phúc nếu các mối quan hệ được chú ý xây dựng, thực hiện dựa trên chính sự yêu thương. Yêu thương bắt đầu từ sự thấu hiểu, chia sẻ với người khác mà không phải là sự ích kỉ. Sự yêu thương là giá trị truyền thống của dân tộc ta, nên cần phải phát huy truyền thống ấy. “Trẻ là ngọn nến thắp sáng niềm hạnh phúc của cha mẹ và cô giáo”. Một ngọn nến muốn thấp sáng thì cần phải được nâng niu từ nhiều khía khác nhau như từ: Gia đình, trường học, xã hội. Khi mỗi ngày đến trường của trẻ là một ngày vui, một ngày hạnh phúc từ đó lan tỏa được đến thầy cô và cha mẹ vậy nên chúng ta hãy hành động “Để trẻ luôn tỏa sáng”. 2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu Năm học 2024 - 2025 tôi đã được phân công dạy lớp Lá 2 với sỉ số trẻ là 20/10 nữ. Mỗi trẻ có khả năng tiếp thu riêng không đồng đều, trong đó hơn 50% trẻ chưa được học qua các lớp mầm, chồi nên trẻ thiếu tự tin khi tham gia các hoạt động trong ngày. Do ảnh hưởng kinh tế và tâm lí phụ huynh hiện nay cưng chiều sợ con cháu mình đi học bị bạn đánh, bị ốm, khóc và cho rằng trẻ còn nhỏ nên chưa cho trẻ đi học để trẻ ở nhà cho ông bà chăm sóc. Nhiều phụ huynh hiện nay chỉ quan tâm đến việc học đọc, học viết ít quan tâm đến cảm xúc, tình cảm của trẻ. Trẻ sống trong một môi trường bao bọc khiến trẻ trở nên dựa dẫm vào người khác, không có tính tự lập, ích kỷ, lãnh cảm với môi trường xung quanh. Một số trẻ không chịu đi học thì bị ông bà, ba mẹ hoặc người thân quát mắng, hù dọa ảnh hưởng lớn đến tâm lí của trẻ. Từ những thực trạng trên để có biện pháp giáo dục phù hợp nhằm khơi gợi sự hứng thú của trẻ, giúp trẻ phấn khởi, vui vẻ khi đến lớp, trẻ sẽ tích cực hứng thú tham gia các họat động, hòa đồng, yêu thương bạn bè và cô giáo. Trẻ sẽ trở nên tự tin trong giao tiếp với mọi người xung quanh. Vì vậy, vào đầu năm tôi tiến hành khảo sát thực tế trên 20 trẻ lớp tôi phụ trách trong năm học 2024 - 2025 được kết quả như sau: SỐ THỨ TỰ TỔNG SỐ TRẺ NỘI DUNG SỐ LƯỢNG ĐẠT TỶ LỆ % SỐ LƯỢNG CHƯA ĐẠT TỶ LỆ % 1 20 Trẻ vui vẻ tự giác chào cô, chào bố mẹ khi đến lớp 10 50 10 50 2 Trẻ tự tin thể hiện cảm xúc, bộc lộ suy nghĩ tính cách bản thân 9 45 11 55 3 Trẻ hòa đồng yêu thương bạn bè, cô giáo 7 35 13 65 4 Trẻ tích cực, hứng thú tham gia hoạt động 6 30 14 70 Qua khảo sát đầu năm tôi có những thuận lợi và khó khăn như sau: 2.1. Thuận lợi Ban giám hiệu nhà trường chỉ đạo sát sao luôn quan tâm bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên. Cơ sở vật chất tương đối đầy đủ để phục vụ cho việc chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục trẻ, phòng học rộng rãi, thoáng mát, khang trang. Bản thân là một giáo viên ham học hỏi, được đào tạo chuẩn, có kiến thức kỹ năng sư phạm tốt. Phụ huynh tích cực ủng hộ đồ dùng và các nguyên vật liệu để làm đồ chơi, đồ dùng dạy học cho trẻ. 2.2. Khó khăn Chưa tạo môi trường phù hợp, lôi cuốn, hấp dẫn trẻ. Hình thức, phương pháp tổ chức cho trẻ hoạt động học còn đi theo lối mòn chưa tạo được sự lôi cuốn hấp dẫn trẻ. Trẻ rụt rè, nhút nhát, chưa tự tin vào bản thân, sợ sai, sợ bị cô la không dám thực hiện những suy nghĩ, ý tưởng theo ý trẻ. Đa số phụ huynh chỉ quan tâm đến việc đọc, viết chữ của trẻ và cho rằng học chữ mới quan trọng, chưa quan tâm đến tâm trạng, nhu cầu, cảm xúc của trẻ. 3. Các giải pháp 3.1. Giáo viên cần tự học nhằm trao dồi kiến thức, kỹ năng về xây dựng lớp học hạnh phúc Để “Xây dựng môi trường giáo dục lớp học hạnh phúc” đầu tiên giáo viên phải không ngừng học tập để nâng cao vốn kinh nghiệm, kiến thức về chuyên môn để chủ động, tự tin, sáng tạo trong quá trình chăm sóc và giáo dục trẻ ở trường mầm non. Nhằm xây dựng lớp học hạnh phúc để phát huy tính tích cực của trẻ. Tôi đã nghiên cứu các tài liệu, công văn của Phòng giáo dục và đào tạo huyện Đức Huệ về các tiêu chí xây dựng lớp học hạnh phúc và tham khảo thêm nhiều tài liệu về cách chăm sóc, giáo dục trẻ để hiểu hơn về tâm lý cảm xúc của trẻ. Tôi học tập nghiên cứu trên các loại tập sách, internet, youtube cách xây dựng môi trường lớp học hạnh phúc để vận dụng vào lớp học của mình. Tôi dành thời gian, tâm huyết để nghiên cứu học hỏi với nhiều hình thức khác nhau như: Học qua chương trình truyền hình “Thầy cô chúng ta đã thay đổi”. Chương trình “Cha mẹ thay đổi nhé” trên đài truyền hình Vtv7. Một số hình ảnh tham khảo tài liệu, qua mạng Cùng với đó tôi xem thêm nhiều giáo án mẫu, tài liệu khác nhau để xây dựng lớp học hạnh phúc và trao đổi kinh nghiệm giữa đồng nghiệp thông qua các buổi hội nghị, tập huấn, sinh hoạt chuyên đề do phòng tổ chức, sinh hoạt chuyên môn của trường của tổ tại trường. Tôi học hỏi thêm rất nhiều kinh nghiệm từ các đồng nghiệp. Với phương pháp dạy học vui vẻ, lôi cuốn, để trẻ được tự do trải nghiệm, sáng tạo và có môi trường gắn kết thân thiện với nhau. Để trẻ cảm thấy hạnh phúc khi đến lớp tôi đã học cách tôn trọng trẻ, không áp đặt trẻ theo ý mình. Trong suốt quá trình chăm sóc, giáo dục trẻ phải tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lí, sở thích, thể chất, nhu cầu, mong muốn, khả năng của trẻ để có phương pháp tạo ra các hoạt động giáo dục phù hợp nhằm phát triển toàn diện cho trẻ. Cô giáo phải thường xuyên trò chuyện, tươi cười với trẻ, kể cho trẻ những câu chuyện hay, dí dỏm, hài hước gây tiếng cười, tạo nên bầu không khí vui tươi, thoải mái khi trẻ ở lớp. Nhờ vậy mà trẻ có nhiều niềm vui là động lực để giúp trẻ vui vẻ, yêu thích đến lớp. Trong các hoạt động hằng ngày ở lớp của cô, cô luôn phải là người kiên nhẫn với trẻ, khuyến khích trẻ bộc lộ cảm xúc giúp trẻ tự tin diễn đạt bằng lời nói của mình. Động viên trẻ tự tin hơn: “Nhất định là con sẽ làm được”, “Cô nghĩ lần sau con sẽ làm tốt hơn” động viên trẻ tham gia, hợp tác cùng phát triển. Khuyến khích trẻ đưa ra các quyết định hay lựa chọn theo khả năng, nhu cầu của bản thân trẻ trước và trong khi chơi. Ví dụ: Khi cho trẻ tham gia hoạt động chơi tôi thường hỏi trẻ thích chơi góc nào? Vai gì? Chứ không áp đặt trẻ. Ở biện pháp này giúp cho tôi nắm bắt được cảm xúc, tâm sinh lý của trẻ một cách kịp thời và nhanh nhất. Từ đó, có các phương pháp, nội dung, hình thức tổ chức các hoạt động phù hợp cho trẻ. Ngoài ra còn giúp giáo viên kiểm soát, điều chỉnh được cảm xúc của mình trong công tác chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ. 3.2. Xây dựng môi trường trong và ngoài lớp theo hướng mở lấy trẻ làm trung tâm nhằm tạo hứng thú cho trẻ tham gia vào các hoạt động Xây dựng môi trường lớp học an toàn, hạnh phúc giúp trẻ tích cực tham gia vào các hoạt động của lớp của trường giúp hình thành được tình cảm lành mạnh và phát triển nhân cách tốt. Giáo viên ứng dụng phương pháp tiên tiến để xây dựng môi trường lớp học hạnh phúc, hấp dẫn, lôi cuốn trẻ tham gia vào các hoạt động. Từ đó, trẻ có môi trường học tập tốt sẽ phát huy hết khả năng sáng tạo của mình. Trẻ sẽ trở nên tích cực, mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp với cô, các bạn và mọi người xung quanh. Trong năm học 2024 - 2025 có chủ đề: “Giáo dục lấy trẻ làm trung tâm - Xây dựng môi trường hạnh phúc” nên việc trang trí, tạo môi trường lớp học là rất quan trọng nhằm tạo sự gần gũi, thân thiện và an toàn cho trẻ. Đối với trẻ nhỏ việc trang trí hình ảnh không chỉ phải đẹp, màu sắc bắt mắt, hình dáng ngộ nghĩnh còn phải phù hợp với chủ đề và mang tính giáo dục với từng góc chơi từng nội dung chơi của trẻ, đáp ứng được nhu cầu khám phá, sáng tạo, khích thích sự tò mò, thích cái mới, cái lạ của trẻ. Tôi đã trang trí và xây dựng các góc chơi ở lớp mình sáng tạo, đẹp mắt hơn theo hướng “mở” lấy trẻ làm trung tâm một cách linh hoạt nhất. Khi trẻ tham gia ở góc chơi “mở”, trẻ có thể thay đổi nội dung chơi, chủ đề, hình ảnh, biểu tượng chơi linh hoạt, sáng tạo, nhằm phát huy hết tài năng của trẻ. Ví dụ: Lớp học góc chủ đề được thể hiện nổi bật nhất, tôi lựa chọn trang trí những hình ảnh có tính thẩm mĩ đối với trẻ nhỏ. Khu vực tường của góc chủ đề tôi sử dụng chất liệu bề mặt trơn, nhẵn để dễ dàng dán, bóc thay đổi các hình ảnh sao cho phù hợp với từng chủ đề của lớp đang thực hiện. Góc nghệ thuật: Tôi trang trí các bức tranh trẻ tự làm từ các nguyên vật liệu phế thải, tự nhiên như: Tranh đá, tranh từ các nắp chai, tranh từ hạt đậu mang tính nghệ thuật nhằm hấp dẫn và lôi cuốn trẻ. Góc phân vai: Tôi làm mô hình đồ dùng giống như sinh hoạt hàng ngày của trẻ với các loại rau củ quả theo cách làm “mở” sinh động, gần gũi quen thuộc với trẻ. Tôi trang trí bảng siêu thị của bé: Phía ngoài là hình ảnh các gian hàng bán rau củ quả và nhiều loại thực phẩm.., hàng phía dưới là dành cho trẻ, trẻ có thể chơi theo gợi ý của cô như: Hôm nay chơi nấu ăn trẻ đến của hàng chọn thực phẩm, cô gắn biểu tượng 4 nhóm chất cho trẻ chọn các thực phẩm giàu chất tương ứng dán vào ô; Vào ngày hôm sau trẻ chơi bán hàng sẽ tháo hình cũ xuống gắn hình mới lên…Góc bác sĩ nhí trẻ đóng vai làm bệnh nhân được bác sĩ khám bệnh và kê toa thuốc… Hình ảnh trẻ chơi góc phân vai Góc xây dựng: Tôi chuẩn bị rất nhiều khối gỗ, hàng rào, cây xanh, rau củ quả rời, cỏ, cây cầu, cổng để trẻ có thể tự do lắp ghép, xây dựng nên các công trình theo ý thích. Hình ảnh trẻ tự lắp ghép và xây góc xây dựng Việc xây dựng môi trường giáo dục trong và ngoài lớp học theo hướng mở, giáo dục lấy trẻ làm trung tâm một cách linh hoạt, sáng tạo dễ thu hút được trẻ, nhằm kích thích được sự tò mò, ham hiểu biết, thích khám phá những điều mới lạ bằng việc cho trẻ chơi ở các góc chơi cùng nhiều đồ dung, đồ chơi hấp dẫn, đẹp mắt sẽ giúp trẻ hăng say hơn trong các hoạt động. Điều này là động lực nhằm kích thích lòng yêu nghề, mến trẻ của người giáo viên trong nhà trường Góc cảm xúc: Tôi luôn tự hỏi rằng “Lớp học hạnh phúc là gì?”. Phải là ở nơi trẻ cảm thấy mình được hạnh phúc, thấy sự bình yên, chia sẻ, thấu hiểu và thông cảm. Tại sao ngày nay lại có nhiều trẻ bướng bỉnh, chống đối hay không thích trao đổi với người thân. Vì bản thân trẻ không nhận được sự đồng cảm và chia sẻ, không được lắng nghe và giãi bày quan điểm của mình. Khi chơi: Trẻ thể hiện được gì?. Vâng! Ở góc này trẻ được bộc lộ cảm xúc của mình. Trẻ được chia sẻ với cô về suy nghĩ, cô luôn lắng nghe, chia sẻ, động viên và khuyến khích trẻ thể hiện nhiều những cảm xúc tích cực và đẩy lùi các cảm xúc tiêu cực ở trẻ. Ví dụ: Hôm nay có một trẻ đến lớp với tâm trạng rất buồn, khó chịu, bực tức không nói chuyện với cô và các bạn. Cô hỏi trẻ nhưng trẻ lại không muốn trả lời cô. Cô tôn trọng trẻ và có thể gợi ý hỏi trẻ: Con cảm thấy thế nào? Hôm nay con không được vui phải không? Con có muốn nói cùng với cô không? Nếu không muốn nói với cô thì con hãy đến góc cảm xúc để vẽ lên khuôn mặt, ra dấu ký hiệu về tâm trạng của con hôm nay, điều con mong muốn là gì? Trẻ đã bộc lộ cảm xúc của mình qua việc vẽ khuôn mặt (Tức giận hoặc buồn..) theo đúng cảm xúc của trẻ. Tôi còn đưa ra một số những nội quy cụ thể như: Trẻ ngoan, làm được việc tốt sẽ được khen thưởng, trẻ không ngoan sẽ bị phạt. Hình ảnh trẻ ngoan sẽ được khen Hình ảnh trẻ không ngoan sẽ bị phạt Ví dụ: Bạn nào ngoan sẽ được thưởng vào góc đó được vẽ được thưởng ngôi sao... Nếu như ngày hôm nay một bạn nào trong lớp chưa ngoan còn đánh bạn hay tranh giành đồ chơi của bạn cô sẽ đưa ra hình thức phạt như: Gỡ rối cuộn len một mình, không được chơi cùng các bạn trong 3 phút. Đây cũng là lúc mà trẻ có thể bình tĩnh nhìn nhận lại những hành động của mình. Nhiệm vụ của tôi là tìm ra hướng giải quyết và kiên nhẫn với trẻ, chờ đợi trẻ, khuyến khích trẻ bộc lộ cảm xúc, ý nghĩ và tự tin diễn đạt bằng lời. Tôi luôn động viên những trẻ nhút nhát, chưa tự tin vào bản thân: “Cô nghĩ nhất định con sẽ làm được”, “Lần sau con sẽ làm tốt hơn”…khuyến khích trẻ tham gia, hợp tác để cùng phát triển. Sau khi áp dụng biện pháp trên tôi thấy trẻ lớp tôi tham gia hoạt động tích cực, nhanh nhẹn. Khi chơi trẻ thể hiện hết mình, chủ động giao lưu tự tin, đoàn kết, biết yêu thương, chia sẻ. Tôi thì tổ chức các hoạt động nhẹ nhàng không còn gò bó, áp đặt. Tôi luôn là người đồng hành cùng với trẻ trong quá trình chơi. Trẻ thì luôn vui vẻ tham gia chơi nhiệt tình. Đó là môi trường trong lớp, còn ngoài lớp học để trẻ không cảm thấy nhàm chán với những đồ chơi quen thuộc có sẵn ở sân trường tôi còn tự tay làm những đồ chơi ngoài trời như: Đồ chơi boling, ném vòng vào chai, đồ chơi với cát, nước, đá, sỏi.... đồng thời sắp xếp các khu vực chơi hợp lí. Từ đó, giúp trẻ hứng thú tích cực tham gia vào các hoạt động giúp trẻ nhanh nhẹn, mạnh dạn, phối hợp với bạn trong quá trình chơi tạo điều kiện cho trẻ được giao lưu, đoàn kết, chia sẻ với nhau. Đặc biệt các loại đồ chơi trên cần được rửa, vệ sinh định kỳ để đảm bảo sự an toàn, ngăn ngừa bệnh dịch cho trẻ. Các trang thiết bị, đồ dùng, đồ chơi, không gian trong lớp, ngoài sảnh, khu vực vệ sinh để phục vụ cho việc tổ chức các hoạt động, sinh hoạt hằng ngày của trẻ. Được xây dựng theo hướng lấy trẻ làm trung tâm nhằm mục đích phát triển toàn diện về: Thể chất; trí tuệ; thẩm mĩ; đạo đức; xã hội. Thỏa mãn nhu cầu nhận thức, mở rộng hiểu biết của trẻ, kích thích trẻ hoạt động tích cực, sáng tạo. Từ cách trang trí đó mà trẻ lớp tôi hoạt động tích cực, hứng thú, say mê, không còn nhàm chán, rập khuôn, máy móc như trước nữa. Bên cạnh những hình ảnh to để trang trí chính ở các góc, các mảng tường, thì những chi tiết phụ họa cũng được tôi chú trọng để làm nổi bật các góc, thu hút trẻ như: Hàng rào, hoa leo, chân tường, bụi cỏ, bụi hoa nhỏ. 3.3. Tạo cho trẻ cảm giác an toàn, gần gũi, yêu thương khi đến lớp Tạo cho trẻ cảm giác an toàn, cảm thấy gần gũi với cô và bạn dần dần trẻ cảm nhận tình yêu thương, sự quan tâm của cô đối với trẻ tạo động lực giúp trẻ yêu thích đến lớp. Ngoài ra, còn hình thành cho trẻ thói quen như: Biết quan tâm, chia sẻ với bạn bè của mình. Nhằm góp phần phát triển nhân cách cho trẻ một cách toàn diện nhất giúp trẻ trở thành người con ngoan, trò giỏi, biết kính trên nhường dưới, quan tâm đến tất cả mọi người và sẵn sàng giúp đỡ, quan tâm đến người khác, chia sẻ đồ dùng, đồ chơi với các bạn trong lớp. Môi trường giáo dục an toàn cho trẻ lứa tuổi mầm non bao gồm an toàn về “thể chất” và “tinh thần”. Do vậy, trước hết là trẻ được phát triển khỏe mạnh, được đảm bảo an toàn mọi lúc, mọi nơi. Nên tôi luôn sắp xếp, kiểm tra đồ dùng, đồ chơi của lớp sau mỗi buổi học, buổi chơi kết thúc. Nhằm loại bỏ đồ chơi dễ gây nguy hiểm cho trẻ. Đồ dùng trang thiết bị trong lớp phải đảm bảo tính an toàn, các loại đồ chơi hột hạt phải bỏ vào hộp có nắp đậy cẩn thận, các giá kệ phải vững chắc vừa tầm tay với trẻ. Khi chơi cô có thể cùng tham gia cùng và luôn giám sát trẻ lúc chơi. Tôi luôn luôn chú ý bao quát trẻ khi trẻ ra khám phá hoạt động ngoài trời vì ở hoạt động này ngoài những trò chơi có luật còn có những trò chơi tự do trên sân trường như: Cầu tuột, đu quay, nhà banh,... trẻ nhỏ thích khám phá, tò mò, hiếu động nếu cô không nhắc nhở, bao quát thì không thể đảm bảo an toàn hết cho trẻ. Vì vậy, tôi thường xuyên dạy trẻ chơi như thế nào để giữ được an toàn như: Xếp hàng, chờ đến lượt, không được xô đẩy,.. Ví dụ: Khi chơi cầu tuột rất nhiều trẻ thích chơi, trẻ thường tuột liên tục rất dễ gây nguy hiểm. Khi chơi tôi cho trẻ xếp hàng để từng trẻ được lên, bạn tuột xuống rồi thì bạn kế tiếp mới được lên. Hình ảnh trẻ xếp hàng chơi cầu tuột Để biết được trẻ cần gì? Bản thân tôi có phương pháp như nói chuyện, trao đổi, dạy dỗ nhẹ nhàng, luôn động viên khích lệ trẻ kịp thời, thường xuyên dành những lời khen, nụ cười với trẻ. Luôn quan tâm chăm sóc những lúc trẻ bệnh nhằm tạo cho trẻ cảm giác cô giáo như ngưởi mẹ. Từ đó, trẻ yêu quý cô giáo và thích đi học hơn. Hình ảnh cô động viên trẻ khi trẻ bệnh Ví dụ: Bạn Tiên bị đau bụng cô nhẹ nhàng con đau chỗ nào? Trong lúc chờ ba mẹ trẻ đến rước thì cô thoa dầu cho bé động viên không sao đâu! Một chút nửa sẽ hết! Bằng những cử chỉ, lời nói trìu mến giúp trẻ yên tâm và yêu mến cô giáo hơn. Thực tế cho thấy mỗi đứa trẻ đều có tính cách khác nhau, có trẻ rất sôi nổi hoạt bát, sẵn sàng chia sẻ suy nghĩ, mong muốn của mình. Nhưng lại cũng có những trẻ nhút nhát, sống hướng nội và không chủ động trong giao tiếp với mọi người xung quanh. Vì vậy, để trẻ trở nên mạnh dạn trong giao tiếp cô phải đóng vai trò là một người bạn, đặt mình vào vị trí của trẻ để hiểu trẻ, giúp trẻ dễ dàng tâm sự, chia sẻ suy nghĩ, cảm xúc của trẻ. Ngoài giờ học tôi luôn tận dụng thời ở gian mọi lúc mọi nơi để tâm sự, trò chuyện cùng trẻ vào các giờ như: Đón trẻ, buột tóc, vệ sinh cá nhân, giờ ngủ, trả trẻ... Khi trẻ đã cảm thấy được sự quan tâm trẻ sẵn sàng chia sẻ và cởi mở hơn khi giao tiếp với mọi người. Ví dụ: Khi buột tóc cho trẻ tôi hỏi: Con thích để tóc dài hay tóc ngắn? Lúc sáng tại sao con không chịu vô lớp học? Ở nhà con làm gì? Con thương ai nhất nhà? Vì sao?....Khi buột tóc cho mỗi trẻ tôi đều trò chuyện với rất nhiều câu hỏi khác nhau đôi khi pha chút hài hước giúp trẻ vui cười. Để trẻ cảm nhận được sự yêu thương, gần gũi thì cô là người đóng vai trò rất quan trọng. Vì thế, cô phải luôn là tấm gương mẫu mực trong các hành động, cử chỉ thái độ và phải luôn đối xử công bằng giữa trẻ với nhau. Đôi khi vì một câu nó vô tình của cô sẽ làm ảnh hưởng đến tâm lí của trẻ. Ví dụ: Vào giờ học tạo hình trẻ “Làm thiệp tặng các chú bộ đội” bạn Phong làm dơ giấy vẽ và thực hiện chưa xong thay vì la mắng trẻ thì cô dịu dàng, từ tốn hỏi trẻ: Giấy vẽ của con sao lại dơ vậy? Cô sẽ cùng con hoàn thành tấm thiếp này để gửi tặng cho chú bộ đội nhé! Tấm thiệp này cô sẽ ghi bạn Phong tặng chú và tôi nhận thấy trẻ rất vui vẻ và phấn khởi thực hiện. Tôi tôn trọng sự khác biệt của mỗi trẻ, không lấy đặc điểm, tính cách của trẻ này đem so sánh với trẻ khác. Hình ảnh cô giáo động viên trẻ hoàng thành sản phẩm của mình và trưng bày Ví dụ: Cùng hoạt động tạo hình vẽ về các hiện tượng tự nhiên. Bạn Trân hoàn thành bức tranh rất đẹp có sáng tạo, còn bạn Quyên nét vẽ còn nguệch ngoạc, tô màu chưa khéo, nhưng cô đã đến động viên, khen ngợi kịp thời vì bạn Quyên có tiến bộ hơn so với trước, cô không nên so sánh tranh của 2 trẻ với nhau sẽ làm cho trẻ mất tự tin, chán nản không muốn cố gắng. Là một giáo viên tôi nhận thấy rằng lời khen là món quà tinh thần quan trọng đối với bản thân trẻ khi được cô giáo khen trẻ cảm thấy sung sướng và hạnh phúc. Ví dụ: Bạn Danh mới hớt tóc cô khen: Danh hớt tóc đẹp trai lên quá! Thế ai dẫn con đi hớt tóc, con hớt tóc ở đâu? Bạn Yến mặc đồ đẹp quá! Ai mua đồ này cho con? Thấy thế các bạn khác cũng hỏi cô: Cô ơi con có đẹp không cô? Cô thấy tất cả các bạn lớp mình ai cũng đẹp, cũng dễ thương nè!. Thế là tất cả trẻ ríu rít bên cô, uyên thuyên kể chuyện với cô, kể cả những trẻ ít nói cũng hòa vào không khí đó. Qua đó, trẻ cảm thấy gần gũi với cô, yêu quý cô của mình và thích đi học để kể cho cô nghe những điều mình biết. Hình ảnh cô cùng trẻ tham gia trò chơi “Rồng rắn lên mây” Ví dụ: Ở trong trò chơi “Rồng rắn lên mây” cô tham gia cùng trẻ làm người dẫn đầu hoặc đóng vai ông chủ để tạo sự gần gũi giữa cô và trẻ. Để giúp trẻ có thể hòa đồng mạnh dạn tham gia các hoạt động cùng bạn, biết thể hiện tình cảm chia sẻ đồ chơi cùng bạn thì tôi chú trọng giáo dục trẻ mọi lúc mọi nơi vào các hoạt động như: Hoạt động học: Tôi sưu tầm một số câu chuyện, bài thơ về tình bạn: Chuyện “Cây táo thần”, “Cô chủ không biết quý tình bạn”, Thơ “ Tình bạn đẹp”, “Chú bò tìm bạn”,… Hoạt động ngoài trời và hoạt động chơi: Đối với trẻ mầm non việc giành đồ chơi rất hay xảy ra những lúc như vậy tôi trò truyện và hỏi trẻ: Tại sao con lại làm như vậy? Khi con giành hết đồ chơi của bạn con thấy bạn như thế nào? Bạn rất buốn phải không? Nếu bạn giành hết không cho con chơi thì sao? Cuối cùng tôi cho trẻ xin lỗi và bắt tay hoặc ôm nhau để làm hòa. Làm như vậy trẻ hiểu và không còn giành đồ chơi nữa. Để trẻ cảm thấy thoải mái, vui vẻ khi đến lớp. Với kiểu chào hỏi cứng nhắc trước kia thì bây giờ tôi cho bé tự lựa chọn cách chào với “menu lựa chọn” dán ở cửa lớp như: Khi trẻ chọn hình ảnh trái tim thì cô ôm nhẹ trẻ vào lòng một cách yêu thương. Với hình ảnh nốt nhạc thì trẻ thể hiện cảm xúc với vũ điệu lắc lưa, nhún nhảy. Tùy theo cảm hứng của trẻ mà cô hưởng ứng theo, đừng quên trao cho trẻ nụ cười yêu thương. Qua hình thức chào hỏi như thế sẽ làm cho trẻ thêm phần hứng thú, phấn khởi. Từ đó, trẻ không còn có cảm giác nặng nề nữa mà trẻ cảm nhận không khí thoải mái giống như người bạn thân thiết. Ví dụ: Khi đi học bạn Phúc nhõng nhẽo, đứng dậm chân không chịu chào cô khi đến lớp. Lúc đó, tôi nhẹ nhàng, vui vẻ nở nụ cười với trẻ ôm trẻ vào lòng và cho trẻ chọn cách chào cô bằng cách đập tay. Hình ảnh trẻ chọn trái tim chào cô Hình ảnh trẻ đập tay chào cô Ở bất kì một hoạt động nào thì vai trò của giáo viên cũng vô cùng quan trọng. Với giờ ăn - ngủ có những trẻ rất sợ giờ ăn ở trên lớp, giờ ngủ vẫn còn một số bạn khó ngủ hay thậm chí không ngủ. Nhận thấy đây là một vấn đề rất nghiêm trọng ảnh hưởng đến thể lực sự phát triển trí tuệ của trẻ. Nên tôi đã chủ động thay đổi phương pháp gây hứng thú tạo không khí vui vẻ trong giờ ăn, trò chuyện với trẻ về ý nghĩa của việc ăn hết xuất, giúp cơ thể phát triển toàn diện. Vào giờ ngủ của trẻ tôi hay kể chuyện cho trẻ nghe nhờ vậy trẻ cảm nhận được sự ấm áp thân thiện cô đem đến cho trẻ như “mẹ hiền”. Đối với những bạn khó ngủ tôi nằm cạnh và vỗ vể trẻ để trẻ dễ đi vào giấc ngủ. Hạnh phúc không phải là những gì to tát mà hạnh phúc chỉ đơn giản là cô cho trẻ cảm nhận được sự gần gũi, yêu thương. Từ những việc làm tưởng chừng rất bình thường nhưng nếu được làm thường xuyên tôi nhận thấy được sự thay đổi đáng kể của trẻ. Trẻ biết yêu thương, quan tâm đến bạn nhiều hơn, biết giúp đỡ bạn trong học tập, vui chơi, trẻ không tranh giành đồ chơi hay cãi nhau như trước nữa. Biết hỏi thăm cô giáo vì sao hôm nay bạn lại nghỉ học? Bạn bệnh như thế nào vậy cô? Chỉ cần như vậy thôi là một người giáo viên như tôi đã cảm thấy rất hạnh phúc rồi. 3.4. Tổ chức hoạt động cho trẻ theo hướng trải nghiệm nhằm giúp trẻ tích cực, hứng thú tham gia Môi trường giáo dục khiến trẻ thật sự hạnh phúc là môi trường mà trong đó trẻ phải luôn được khám phá, được tham gia trải nghiệm, được nêu ý tưởng và tham gia thực hành ý tưởng nhằm phát huy ở trẻ tính tích cực, hứng thú. Để thực hiện giải pháp này, tôi tìm hiểu khá kĩ về khả năng trải nghiệm của trẻ 5 - 6 tuổi nói chung và trẻ lớp mình nói riêng để từ đó lựa chọn các họat động trải nghiệm vừa gần gũi, vừa gắn với thực tiễn sau đó lồng ghép vào hoạt động học sao cho hợp lý nhằm khuyến khích, kích thích trẻ, tăng khả năng ghi nhớ, sáng tạo, giúp trẻ mạnh dạn tự tin hơn. Đồng thời tôi cũng luôn khuyến khích trẻ cùng tham gia sưu tầm, chuẩn bị học liệu, làm đồ chơi, trang trí các góc ở lớp… để từ đó thu hút được sự tham gia tích cực của trẻ vào xây dựng môi trường hoạt động trong lớp. Đây là những cơ hội để trẻ áp dụng những kiến thức và kỹ năng trẻ đã học theo cách của mình mà không khiến trẻ cảm thấy bị gò bó. Ví dụ: Trong chủ đề “Tết và mùa xuân” tôi cho trẻ cùng cô gói bánh, gói kẹo, trang trí cây mai, cành đào ngày tết, sản phẩm do chính tay trẻ thực hiện sau đó được cô mang trang trí ở lớp khiến cho trẻ rất vui. Hoặc trong giờ chơi hoạt động góc: Tôi hướng dẫn để trẻ tự tay làm ra những con vật từ nguyên vật liệu đã chuẩn bị, sản phẩm trẻ làm ra sẽ mang đem bán cho các bạn góc xây dựng để đặt vào công trình đang xây. Việc tạo cơ hội và khuyến khích trẻ tham gia xây dựng môi trường lớp học cùng cô là cách thức hữu dụng để kích thích ở đứa trẻ niềm say mê học hỏi, tìm hiểu và kĩ năng thực hành. Các đồ dùng và nguyên vật liệu được tôi bố trí phong phú, thu hút trẻ chơi theo nhiều cách sáng tạo nhằm giúp trẻ có thể chủ động vui chơi, khám phá, trải nghiệm, qua đó thúc đẩy sự hợp tác và khiến trẻ thoải mái trò chuyện chia sẻ ý tưởng cùng bạn bè, từ đó trẻ sẽ hoạt động tích cực, hiệu quả. Ví dụ: Trong hoạt động giáo dục phát triển nhận thức với đề tài cây xanh và môi trường sống, tôi cho trẻ thí nghiệm về sự xói mòn của đất, còn trong hoạt động khám phá nghề nông thay vì việc cô đàm thoại cùng trẻ sau khi cho trẻ xem video về công việc của bác nông dân thì tôi cho trẻ trực tiếp được trải nghiệm các công việc như: Xới đất, gieo hạt, tưới nước…giống như một bác nông dân thực thụ để trẻ khắc họa sâu hình ảnh của người nông dân và khiến trẻ thích thú hơn, yêu thích công việc được hoạt động cùng cô và bạn khi đến trường. Hình ảnh trẻ gieo hạt Hình ảnh trẻ chăm sóc cây *Với hoạt động tạo hình Trước kia hoạt động tạo hình đa phần các cô thường chọn đề tài dễ dàng thực hiện như: Vẽ hoa, vẽ con thỏ,... để vừa thực hành nhanh, vừa có sẵn các nguyên vật liệu như: Bút chì, bút màu mà trẻ đã được sử dụng trong hoạt động hàng ngày, nhưng những hoạt động một màu, một khuôn này cứ lặp đi lặp lại nhiều lần khiến trẻ sẽ dễ chán nản và không muốn thực hành nữa. Vì vậy, ngay từ đầu năm học khi lập kế hoạch cho trẻ hoạt động tôi luôn suy nghĩ rất nhiều, nghiên cứu để vận dụng những đề tài đổi mới, sáng tạo trên một số nền tảng từ: Youtube, Tiktok… và lựa chọn các nguyên vật liệu gần gũi sẵn có như: Lá, que, sỏi, đá, hạt,…phù hợp với điều kiện thực tế của trường lớp. Rất dễ để thấy được rằng khi được tham gia vào các hoạt động mới mẻ, trẻ sẽ vô cùng hạnh phúc vì khi đó trẻ được làm chủ chính hoạt động, được tự do thể hiện vai trò, khả năng vốn có của bản than mình. Hình ảnh trẻ tạo hình các hiện tượng Hình ảnh trẻ nhận xét sản phẩm tự nhiên của mình và của bạn Ví dụ: Khi cho trẻ lớp tôi tìm hiểu về chủ đề: “Nước và một số hiện tượng tự nhiên”, trong hoạt động phát triển nhận thức tôi tổ chức cho trẻ làm thí nghiệm về sự hòa tan trong nước. Chuẩn bị: Mỗi nhóm 2 chiếc ca có nước lọc, một ít đường, muối, sỏi, cát. Tiến hành: Trước khi cho trẻ thí nghiệm tôi đã đặt câu hỏi cho trẻ suy nghĩ: “Những gì có thể tan được trong nước”. Sau khi trẻ nêu ý kiến xong tôi cho trẻ cùng làm thí nghiệm: Bỏ một ít muối, đường vào một ca và bỏ sỏi, đá vào một ca, lấy muỗng khuấy đều. Tôi cho trẻ quan sát 2 ly nước và nói nhận xét của mình. Sau đó, rút ra được kết luận: Một số thứ sẽ hòa tan được trong nước như: Đường, muối, bột ngọt và một số thứ khác như: Sỏi, đá,... sẽ không hòa tan trong nước. Hình ảnh trẻ làm thí nhiệm sự hòa tan Hình ảnh trẻ chờ xem kết quả Việc tôi cho trẻ làm các thí nghiệm nhỏ vào trước hay sau khi tiến hành hoạt động giúp trẻ rất hứng thú và vui vẻ, từ đó trẻ rất thích được khám phá khoa học, trẻ không cảm thấy khô khan mà chán nản cũng từ đó kết quả hoạt động lại đạt rất cao. Bên cạnh đó, tôi hướng dẫn trẻ tham gia trải nghiệm tiệc buffet do nhà trường tổ chức. Đây là dịp cho trẻ học hỏi nhiều thứ từ môi trường xung quanh qua đó tăng thêm tình đoàn kết, yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau trong tập thể. Trẻ còn được giao lưu với các bạn của các lớp khác trong trường. Nhất là ở việc trẻ được tự tay lấy thức ăn theo nhu cầu, sở thích của mình, giúp đỡ bạn nếu lỡ có việc ngoài mong muốn xảy ra cũng nhằm tạo cơ hội cho trẻ mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp với mối quan hệ xung quanh. Ngoài ra, tôi còn cho trẻ tham gia vào các buổi tham quan trải nghiệm thực tế như: Tham quan trường tiểu học, khu di tích lịch sử. H Hi Hình ảnh trẻ tham quan khu di tích lịch sử ở địa phương Rất dễ thấy rằng mỗi hoạt động trải nghiệm đều có ý nghĩa quan trọng trong việc hình thành, phát triển nhân cách cho trẻ. Qua đó, giúp cho trẻ có thêm nhiều cơ hội tiếp thu về văn hóa, nghệ thuật, tinh thần đoàn kết, hình thành kỹ năng sống ban đầu cho trẻ, đặc biệt giúp trẻ cảm thấy mỗi ngày đến trường là một niềm hạnh phúc. *Tổ chức qua hoạt động ngoài trời Trước khi thực hiện biện pháp này thì ở giờ hoạt động ngoài trời trẻ chủ yếu chỉ được quan sát, chơi với các đồ chơi tự do trên sân trường nên trẻ ít hứng thú tham gia vào hoạt động. Khi nghiên cứu áp dụng giải pháp này, tôi thường xuyên cho trẻ trải nghiệm nhiều hơn, những trải nghiệm được tôi lựa chọn phù họp khả năng, lứa tuổi của trẻ. Trẻ tiếp xúc với môi trường tự nhiên thì trẻ tích cực sử dụng các giác quan như: Nhìn, sờ, ngửi, nghe,.. cũng như thỏa thích chơi những trò chơi dân gian như: Bòn bon, rồng rắn lên mây, cò chẹp,... Ví dụ: Chủ đề “Hiện tượng tự nhiên” với đề tài “Lợi ích của gió” tôi cho trẻ tham gia vào hoạt động xếp máy bay giấy, sau đó đến giờ hoạt động ngoài trời sẽ cho trẻ thi nhau xem máy bay của bạn nào bay xa hơn thì tôi thấy trẻ rất hứng thú thể hiện qua những ánh mắt với những nụ cười rất tươi. Hình ảnh trẻ làm máy bay giấy Hình ảnh trẻ chơi ném máy bay giấy Tôi áp dụng phương pháp vừa học vừa chơi bằng cách lồng ghép các trò chơi vào trong các hoạt động, phát huy tính tích cực và sáng tạo của cá nhân trẻ. Tôi không quá chú trọng về kết quả mà tôi chủ yếu tạo ra cho trẻ một tâm lý thoải mái nhất, không bị gò bó, áp lực và khiến trẻ nhận thấy hạnh phúc là ở chính những “nụ cười”. *Tổ chức qua hoạt động chơi Ở hoạt động chơi trẻ được tham gia chơi những vai chơi mang lại nhiều cảm xúc như: Vai người mẹ, cô bán hàng, chị bác sĩ, anh thợ xây, cô đầu bếp…để trẻ được trải nghiệm những cảm xúc đa dạng. Việc giúp trẻ thực sự yêu thích và hạnh phúc khi chơi trò chơi đóng vai theo chủ đề thì theo tôi vai trò của giáo viên vô cùng quan trọng. Tùy thuộc vào từng vai chơi cụ thể mà cô giáo sẽ nhập vai và xử lý tình huống cùng trẻ, lựa chọn cách thức phù hợp trên cơ sở tôn trọng trẻ tuyệt đối, không bắt buộc, áp đặt trẻ chơi theo ý tưởng của mình, mà cần để trẻ được thoải mái trong việc lựa chọn góc chơi nào?, Vai chơi gì?, Chọn bạn cùng chơi với mình! có như vậy trẻ mới cảm thấy vui vẻ và hạnh phúc. Hình ảnh trẻ vai vai mẹ bế con Hình ảnh trẻ vào vai người bán hàng Thông qua những buổi trải nghiệm này không những giúp trẻ tiếp thu những kiến thức một cách nhẹ nhàng, vui vẻ mà còn giúp trẻ mạnh dạn tự tin hơn trong giao tiếp, hứng thú tham gia vào các hoạt động, tạo thêm tinh thần đoàn kết giữa các trẻ ở lớp với nhau góp phần hình thành nhân cách và phát triển toàn diện cho trẻ. 3.5. Tạo cơ hội cho trẻ được nói lên những suy nghĩ và cảm nhận bằng ngôn ngữ của chính mình Theo tôi tìm hiểu qua sách, báo, trên mạng internet thì sự tự do chính là người cha đẻ của sự mạnh dạn, tự tin, thoải mái, tự do chính là môi trường thuận lợi nhằm để kích thích ý tưởng sáng tạo của trẻ. Là một người lớn, một người giáo viên có nhiệm vụ là nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục và giúp đỡ trẻ, hướng dẫn cho trẻ khi thực cần thiết nếu trẻ gặp khó khăn một cách kịp thời để trẻ luôn đi đúng hướng. Bởi thế nên tôi luôn tạo ra cho trẻ một không gian tự do cần thiết, cho trẻ có thể quyết định những việc làm đơn giản. Việc trẻ bị hạn chế hay cấm cản quá nhiều sẽ khiến trẻ không có không gian để sáng tạo và dễ hình thành thói quen làm theo ý muốn của người khác. Tuy nhiên, việc tôi dành tự do cho trẻ không đồng nghĩa với việc cho phép trẻ được tự ý vô nguyên tắc, vô kỉ luật mà phải song song với đó tôi cho trẻ sự tự do sáng tạo và luôn đưa ra những giới hạn nhất định trong giáo dục trẻ. Ví dụ: Bạn Trăm chọn kể về con chó nhà bạn ấy: Con chó nhà con nuôi nó đang bị bệnh. Nên bà nội con kêu người vô chích thuốc, khi con đi về nó mừng! Con thương nó lắm! Còn bạn khác thì chọn con voi để kể: Mẹ con dẫn con đi sở thú con thấy nhiều con voi nó to lắm,... Hình ảnh trẻ chọn và kể về con vật trẻ thích Hoặc là chủ đề thực vật tôi muốn cho trẻ tạo hình những bông hoa từ nguyên vật liệu vào thứ ba tuần sau thì thứ sáu tuần này tôi sẽ cho trẻ xem tranh hoa từ nguyên liệu như lá cây, vỏ sò, nắp chai, hạt hướng dương… đàm thoại với trẻ tranh làm từ nguyên vật liệu gì? Các con thấy nguyên liệu ở đâu, nhà con có không? Các con về nhà nhặt những nguyên vật liệu như thế này để tuần sau mình thực hiện nhé!. Khi được giao nhiệm vụ trẻ rất phấn khởi và hứng thú khi thực hiện sản phẩm từ chính nguyên liệu mà trẻ tìm được. Khi thực hiện tôi cho trẻ nêu ý tưởng và thực hiện theo ý tưởng của trẻ đồng thời tôi luôn động viên, giúp đỡ khi trẻ gặp khó khăn vì thế trẻ mạnh dạn hơn. Tôi tổ chức một số họat động cho trẻ làm việc theo nhóm, trẻ tự do bàn bạc, thảo luận, đưa ra ý kiến của bản thân nhằm giúp trẻ mạnh dạn, tự tin tạo mối quan hệ thân thiết, đoàn kết giữa các bạn bè với nhau. Trẻ được thể hiện mình thông qua các trò chơi. Nên tôi muốn mang những trò chơi dân gian đang ngày càng bị lãng quên mà thay vào đó là các trò chơi thông minh hiện đại và quay trở về trong cuộc sống ngày thường của những đứa trẻ thơ, giúp cho vốn kiến thức và kinh nghiệm sống của trẻ được phát triển bền vững. Đây chính là nền tảng để giúp trẻ cảm thấy việc đến lớp được hoạt động cùng cô và bạn là một việc dễ dàng vì nó vừa vui, vừa bổ ích. Ví dụ : Trong giờ hoạt động ngoài trời, trước khi chơi tự do thì tôi tổ chức cho trẻ chơi trò chơi vận động (trò chơi có luật hoặc trò chơi dân gian) thì tôi hỏi trẻ: Hôm nay con thích chơi trò chơi gì? Nếu trẻ không nói thì cô gợi ý một số trò chơi cho trẻ chọn và nêu cách chơi, luật chơi theo ý trẻ. Hình ảnh trẻ chơi trò chơi dân gian 3.6. Phối kết hợp với phụ huynh để xây dựng lớp học hạnh phúc Vào đầu năm học sau khi đã tham mưu và nhận được sự đồng ý từ ban giám hiệu nhà trường, thông qua cuộc họp phụ huynh, tôi vận động phụ huynh ở lớp gây quỹ mang tên “Lớp Lá 2 ngàn sự yêu thương”. Hình ảnh hội trưởng hội phụ huynh Hình ảnh phụ huynh xem nội dung của lớp tặng sữa cho trẻ bảng tuyên truyền Với hình thức mỗi tuần phụ huynh sẽ cho trẻ tự tay góp vào đó tùy theo khả năng của mình. Quỹ đó do ban đại diện cha mẹ quản lí để tổ chức tặng món quà nhỏ cho các bạn có hoàn cảnh khó khăn như: Tập, bút màu, thùng sữa. Để phối hợp với phụ huynh một cách hiệu quả thì ngay ở buổi họp phụ huynh đầu năm thay phương pháp họp truyền thống tôi tổ chức buổi họp mang tên “Buổi họp hạnh phúc”. Tôi nhận thấy buổi họp phụ huynh diễn ra rất vui vẻ, phụ huynh hợp tác nhiệt tình khi phần lớn phụ huynh đều tham gia bày tỏ tâm tư, nguyện vọng bằng cách cha mẹ trẻ sẽ viết lên thiệp mà tôi đã chuẩn bị được trang trí ngộ nghĩnh. Sau đó, cha mẹ trẻ đã gửi lời yêu thương cho các con và viết thêm mong muốn nguyện vọng với các cô phụ trách lớp, những tấm thiệp này được dán lên góc “Góc chia sẻ”, “Lớp học hạnh phúc”. Hình ảnh họp phụ huynh của lớp Tôi còn phối hợp cùng phụ huynh tổ chức sinh nhật cho trẻ tại lớp, trẻ rất vui vì được cùng cô chuẩn bị tiệc, được tự tay tặng quà cho bạn mình và nói lời chúc cũng như lời yêu thương đến bạn mình. Từ đó, giúp trẻ hình thành sự yêu thương, trẻ biết quan tâm, biết chia sẻ với bạn bè, với cô giáo và với những người xung quanh. Tôi kết nối với phụ huynh qua bảng bố mẹ cần biết được tôi đặt tại cửa lớp, tôi luôn thay đổi nội dung theo tuần cho phu huynh thấy được ở lớp con mình được học những gì. Ngoài ra, tôi còn giới thiệu chương trình “Ba mẹ thay đổi” trên kênh Vtv7 những tập phát sóng như: “Vì sao đứa trẻ trở nên vô cảm?”; “Con cái sẽ trở nên hạnh phúc chỉ bằng những hành động nhỏ này của cha mẹ”; “Làm sao để thấu hiểu”. Từ việc phối hợp cùng phụ huynh, tôi nhận đã được sự ủng hộ nhiệt tình và sự ủng hộ tối đa các nguyên vật liệu mà phụ huynh sẵn có hoặc sưu tầm như: Bìa catton, chai nhựa, lá cây, lọ su su, chai nước xà phòng, vỏ lon sữa, sỏi, các loại hột, hạt… để có một nguồn nguyên liệu đa dạng, phong phú để làm đồ dung, đồ chơi cho trẻ. Trẻ hứng thú tham gia cùng cô tạo ra các loại đồ chơi từ các nguyên vật liệu đó. Hình ảnh phụ huynh ủng hộ cho lớp những nguyên vật liệu * Kết hợp qua các kênh thông tin mạng internet. Để làm được điều này tôi đã lập nhóm zalo của lớp để định kỳ thường xuyên gửi các hoạt động của trẻ tới cha mẹ. Hình ảnh nhóm lớp trên zalo Ngoài ra tôi còn tìm hiểu, nghiên cứu và dành thời gian gửi tới phụ huynh kiến thức về tâm lý của trẻ nhằm giúp cha mẹ trẻ hiểu và kết hợp với giáo viên để xây dựng một môi trường lớp học hạnh phúc, yêu thương. 4. Kết quả Từ khi áp dụng những giải pháp trên vào thực tế, lớp tôi đã có những chuyển biến lớn và đạt được kết quả như sau: 4.1. Đối với trẻ Sau thời gian thực hiện áp dụng các giải pháp trên trẻ trở nên tự tin, mạnh dạn thể hiện mình khi tham gia các hoạt động, hòa đồng yêu thương cô và bạn. Trẻ lớp tôi vô cùng thích thú khi đến lớp, lớp học lúc nào cũng vui vẻ, tràn ngập tiếng cười nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Kết quả như sau: SỐ THỨ TỰ TỔNG SỐ TRẺ NỘI DUNG SỐ LƯỢNG ĐẠT TỶ LỆ % SỐ LƯỢNG CHƯA ĐẠT TỶ LỆ % 1 20 Trẻ vui vẻ tự giác chào cô, chào bố mẹ khi đến lớp 20 100 0 0 2 Trẻ tự tin thể hiện cảm xúc, bộc lộ suy nghĩ tính cách bản thân 18 90 2 10 3 Trẻ hòa đồng yêu thương bạn bè, cô giáo 19 95 1 5 4 Trẻ tích cực, hứng thú tham gia hoạt động 20 100 0 0 4.2. Đối với giáo viên Tôi cảm nhận được sự hạnh phúc của chính mình sau nhiều năm giảng dạy, tôi dần cảm thấy mình có giá trị, suy nghĩ trở nên tích cực hơn, đặc biệt là trong công tác nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ. Tôi rút ra được nhiều kinh nghiệm và bước đầu đã thành công trong việc xây dựng lớp học hạnh phúc. 4.3. Đối với phụ huynh Phụ huynh rất tin tưởng cô giáo, nhiệt tình ủng hộ cô và nhà trường bằng những nguyên vật liệu có ở địa phương, tạo nên sự ấm áp, yêu thương và chia sẻ. III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 1. Kết luận Để xây dựng được một trường học hạnh phúc thì trước tiên cần phải xây dựng được các lớp học hạnh phúc. Đây cũng là việc cần thiết và có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong công tác chăm sóc, giáo dục trẻ, giúp trẻ phát triển toàn diện, nhằm góp phần hình thành nhân cách và tạo sự liên kết vững chắc cho trẻ trong cuộc sống sau này. Đó cũng là mục tiêu và nhiệm vụ trọng tâm của ngành giáo dục đã đặt ra. Đặc biệt, nhiệm vụ được xem là quan trọng nhất đối với giáo viên mầm non là tạo môi trường hoàn toàn đầy đủ sự tin tưởng để mỗi ngày đến lớp, đến trường với trẻ là một ngày vui vẻ, được học tập, được vui chơi, được yêu thương, được tự do bay cao bay xa những ước mơ của trẻ. Giáo viên phải không ngừng trao dồi kiến thức, kỹ năng cho bản thân, tự mình bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ qua các bài học bồi dưỡng thường xuyên, các buổi dự giờ đồng nghiệp, thao giảng, chủ động trong việc sưu tầm các nguyên vật liệu phong phú, đa dạng để xây dựng môi trường học tập cho trẻ vừa sạch sẽ, vừa phải đảm bảo an toàn. Đồng thời áp dụng phương pháp giáo dục lấy trẻ làm trung tâm nhằm phát huy tính sáng tạo, chủ động và hứng thú của trẻ khi tham gia vào các hoạt động. Chú trọng việc kết hợp với phụ huynh trong việc tuyên truyền, phối hợp nhằm ngày càng nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ. Người giáo viên phải luôn tôn trọng và công bằng với tất cả trẻ, tạo cho trẻ cảm giác cô là người mẹ hiền, ngôi trường là mái nhà ấm áp, trẻ sẽ thoải mái bộc lộ cảm xúc, chia sẻ suy nghĩ của mình với cô giáo, bạn bè và những người thân yêu xung quanh. Cuối bài tôi muốn mang đến một thông điệp đến với các cô: “Hãy phấn đấu để làm cho mỗi một trường học, mỗi một lớp học đều trở nên hạnh phúc, để mỗi ngày đến trường của cô và trẻ đều là một ngày vui vẻ, yêu thương và ngập tràn hạnh phúc”. 2. Kiến nghị * Đối với nhà trường Cung cấp thêm tài liệu về xây dựng trường học hạnh phúc, lớp học hạnh phúc để tất cả giáo viên nghiên cứu. Tôi mong các cấp lãnh đạo tạo điều kiện cho chúng tôi có điều kiện tham gia các lớp bồi dưỡng về chuyên đề xây dựng trường học hạnh phúc, giới thiệu các mô hình trường lớp hạnh phúc, tổ chức các hoạt động thực tế. Trên đây là một số nghiên cứu của tôi đã thực hiện và áp dụng để đạt được kết quả tốt trong việc xây dựng lớp học hạnh phúc. Trong quá trình viết đề tài không tránh khỏi thiếu xót, tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của Hội đồng khoa học các cấp để cho sáng kiến được hoàn thiện hơn. Mỹ Qúy Đông, ngày 20 tháng 4 năm 2025 Xác nhận của thủ trưởng đơn vị Người viết Nguyễn Thị Thúy Duy TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hướng dẫn thực hiện Chương trình chăm sóc giáo dục Mầm non mới dành cho trẻ 5 - 6 tuổi. 2. Bộ tiêu chí trường học hạnh phúc trong các cơ sở giáo dục trên địa bàn tỉnh Long An (Quyết định Sở giáo dục Đào tạo Long An). 3. Chương trình truyền hình “ Thầy cô đã thay đổi” kênh Vtv7. 4. Tâm lý học trẻ em lứa tuồi Mầm non (Từ lọt lòng đến 6 tuổi) Nguyễn Ánh Tuyết ( Chủ biên). 5. “Cẩm nang hạnh phúc” thiền sư Thích Nhất Hạnh. -
“Biện pháp giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ 3-4 tuổi trong trường Mầm non”. TG: Lương Thị Bích Trâm
21/05/2025I. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài, sáng kiến Nhà nước ta luôn xem giáo dục mầm non là quốc sách hàng đầu, trẻ em chính là tương lai của đất nước. Trẻ cần được sống trong môi trường an toàn và lành mạnh, bảo vệ môi trường là nhiệm vụ và mục tiêu hàng đầu trong giáo dục, đối với trẻ việc giáo dục bảo vệ môi trường không chỉ là giáo dục lối sống, phẩm chất đạo đức, hình thành cho trẻ những tình cảm kỹ năng xã hội. Đặc biệt vơi trẻ, đây là nền tảng hình thành cho trẻ những cơ sở đầu tiên của nhân cách con người. Hiện nay, bảo vệ môi trường là vấn đề được toàn xã hội quan tâm hơn bao giờ hết, đặc biệt trong bối cảnh thiên nhiên ngày càng chịu nhiều tác động tiêu cực từ con người. Những hiện tượng thời tiết cực đoan như cơn bão Yaki gần đây đã gióng lên hồi chuông cảnh báo về biến đổi khí hậu, sự mất cân bằng sinh thái và những hậu quả nghiêm trọng đối với cuộc sống của con người Trẻ mầm non đang trong giai đoạn hình thành nhân cách, tư duy và nhận thức. Đây là độ tuổi mà các em dễ tiếp thu và bị ảnh hưởng bởi môi trường xung quanh. Giáo dục trẻ về ý thức bảo vệ môi trường không chỉ đơn thuần là truyền đạt kiến thức mà còn phải thông qua các hoạt động thực tiễn, trải nghiệm sinh động để trẻ tự mình cảm nhận và hình thành thói quen tốt. Điều này càng trở nên quan trọng hơn khi những hiện tượng thiên nhiên khắc nghiệt như bão lụt, ô nhiễm không khí và biến đổi khí hậu đang ngày một đe dọa cuộc sống con người. Thực tế tại lớp mẫu giáo của tôi, tôi nhận thấy rằng nhiều trẻ chưa có ý thức bảo vệ môi trường, từ việc bỏ rác đúng nơi quy định, tiết kiệm nước, đến bảo vệ cây xanh. Một số em còn chưa hiểu rõ tại sao phải giữ gìn môi trường sạch đẹp và hậu quả của việc làm tổn hại đến môi trường. Điều này đặt ra câu hỏi lớn: làm thế nào để giúp trẻ nhận thức rõ hơn về trách nhiệm của mình đối với môi trường? Trong vai trò là một giáo viên mầm non, tôi nhận thức sâu sắc rằng việc giáo dục trẻ em ý thức bảo vệ môi trường từ sớm không chỉ là trách nhiệm mà còn là nghĩa vụ để xây dựng một thế hệ tương lai có nhận thức đúng đắn và hành động thiết thực vì môi trường. Vì thế, tôi chọn đề tài “Biện pháp giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ 3-4 tuổi trong trường Mầm non” tôi mong muốn tìm ra những phương pháp giáo dục hiệu quả nhất, vừa giúp trẻ hiểu được tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường, vừa hình thành ở trẻ những thói quen tốt trong cuộc sống hàng ngày. Đồng thời, tôi cũng hy vọng rằng những biện pháp này sẽ trở thành nguồn cảm hứng cho đồng nghiệp và phụ huynh trong việc giáo dục trẻ, để chúng ta cùng nhau xây dựng một môi trường sống xanh – sạch – đẹp, vì một tương lai bền vững cho thế hệ mai sau. 2. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài, sáng kiến Tìm ra biện pháp giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ 3 – 4 tuổi. Tạo mọi cơ hội cho trẻ thường xuyên tham gia và hoạt động bảo vệ môi trường. Nâng cao chất lượng chăm sóc trẻ tại lớp mầm. Giúp cho trẻ và phụ huynh phát triển mọi mặt về ý thức bảo vệ môi trường xung quanh. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Trẻ 3-4 tuổi đang học tại lớp Mầm do tôi phụ trách. Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ 3 – 4 tuổi trường mầm non Rạng Đông, huyện Đức Huệ, tỉnh Long An trong năm học 2024 – 2025. II. NỘI DUNG 1. Cơ sở lí luận Môi trường sống không chỉ là nơi con người sinh tồn mà còn là yếu tố quyết định đến chất lượng cuộc sống và sự phát triển bền vững của xã hội. Trong bối cảnh thế giới đang đối mặt với những thách thức to lớn từ biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường và sự cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, giáo dục ý thức bảo vệ môi trường ngày càng trở nên cấp thiết. Đặc biệt, việc giáo dục trẻ mầm non – thế hệ tương lai của đất nước – về ý thức và trách nhiệm bảo vệ môi trường là một nhiệm vụ quan trọng, góp phần xây dựng nền tảng vững chắc cho một xã hội phát triển bền vững. Theo quan điểm của các nhà giáo dục học, trẻ mầm non là đối tượng đang trong giai đoạn phát triển nhanh chóng về nhận thức, tư duy, và kỹ năng xã hội. Trẻ em ở độ tuổi này tiếp thu kiến thức thông qua trải nghiệm thực tế và các hoạt động khám phá. Điều này cho thấy, việc lồng ghép giáo dục bảo vệ môi trường vào các hoạt động học tập, vui chơi sẽ giúp trẻ dễ dàng tiếp nhận và hình thành ý thức một cách tự nhiên, lâu dài. Ngoài ra, ý thức về đúng sai, trách nhiệm xã hội của trẻ được hình thành từ những tác động ban đầu của môi trường giáo dục. Vì vậy, nhà trường mầm non không chỉ là nơi truyền đạt kiến thức mà còn là môi trường lý tưởng để giáo dục trẻ về ý nghĩa của việc giữ gìn môi trường sống. Những hành động nhỏ như phân loại rác, tiết kiệm nước hay bảo vệ cây xanh không chỉ rèn luyện cho trẻ thói quen tốt mà còn giúp trẻ nhận thức được vai trò của mình trong việc bảo vệ thiên nhiên. Tại Việt Nam, công cuộc bảo vệ môi trường đã được nhấn mạnh trong các văn bản pháp luật, đặc biệt là Luật Bảo vệ Môi trường năm 2020, trong đó nêu rõ tầm quan trọng của việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho thế hệ trẻ. Đối với trẻ mầm non, sự cần thiết của giáo dục bảo vệ môi trường đã được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ra Quyết định số 1336/QĐ-TTg ngày 17/10/2001 phê duyệt Đề án “Đưa nội dung giáo dục BVMT vào hệ thống giáo dục quốc dân” được các trường lồng ghép nội dung giáo dục môi trường vào chương trình giảng dạy, góp phần xây dựng nền tảng nhận thức bền vững cho trẻ. Bên cạnh đó, các nghiên cứu khoa học cũng chỉ ra rằng, trẻ em khi được giáo dục về môi trường từ sớm sẽ có xu hướng giữ gìn thói quen bảo vệ môi trường khi trưởng thành. Điều này không chỉ giúp xây dựng một thế hệ công dân có trách nhiệm mà còn tạo ra sự lan tỏa tích cực trong gia đình và cộng đồng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, tại nhiều trường mầm non, nội dung giáo dục về bảo vệ môi trường vẫn chưa được triển khai một cách toàn diện và hiệu quả. Trẻ chưa được tạo điều kiện tham gia nhiều vào các hoạt động thực hành, trải nghiệm. Một số giáo viên và phụ huynh còn thiếu kinh nghiệm và phương pháp phù hợp để hướng dẫn trẻ. Chính vì vậy, việc nghiên cứu và áp dụng những biện pháp nâng cao ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ mầm non là vô cùng cần thiết và mang tính cấp bách. Đề tài "Biện pháp giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ 3-4 trong trường mầm non" được xây dựng trên cơ sở khoa học, thực tiễn nơi tôi công tác. Việc thực hiện đề tài không chỉ góp phần nâng cao nhận thức, hình thành thói quen tốt cho trẻ mà còn tạo tiền đề để xây dựng một môi trường giáo dục xanh, thân thiện, góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của cộng đồng. 2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu Vào đầu năm học 2024- 2025 Ban giám hiệu đã phân công tôi dạy lớp Mầm tổng số 22/10 trẻ. a. Thuận lợi Hiện nay, bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề ưu tiên hàng đầu, nhận được sự quan tâm của nhà trường và gia đình. Điều này tạo động lực và nền tảng thuận lợi để giáo dục trẻ em về ý thức bảo vệ môi trường. Các tài liệu, giáo trình và hướng dẫn giảng dạy về bảo vệ môi trường dành cho trẻ em ngày càng phong phú, đa dạng. Trẻ của lớp có khả năng học hỏi nhanh qua quan sát, trải nghiệm thực tế và hoạt động vui chơi. Trẻ thường tò mò, yêu thiên nhiên và dễ dàng tiếp thu những thông điệp tích cực khi được hướng dẫn một cách phù hợp. Phụ huynh ngày càng nhận thức rõ hơn vai trò của việc giáo dục con trẻ về bảo vệ môi trường và sẵn sàng phối hợp cùng giáo viên trong các hoạt động này. Ban giám hiệu nhà trường luôn khuyến khích và tạo điều kiện cho giáo viên thực hiện các sáng kiến giáo dục sáng tạo, trong đó có nội dung bảo vệ môi trường. Giáo viên thiết kế các bài giảng sinh động, dễ hiểu, thu hút sự chú ý của trẻ. b. Khó khăn Khả năng nhận thức và ghi nhớ còn hạn chế Trường nằm ở vùng nông thôn còn thiếu cơ sở vật chất, thiết bị hỗ trợ và đồ dùng học tập phục vụ cho các hoạt động giáo dục môi trường. Trẻ nhỏ thường dễ quên và cần được nhắc nhở liên tục. Một số tác động từ môi trường xung quanh như tình trạng xả rác bừa bãi, ô nhiễm không khí, nguồn nước chưa được cải thiện cũng có thể khiến trẻ khó nhận thức đầy đủ và thực hành thói quen tốt. Trước khi áp dụng biện pháp tôi đã tiến hành khảo sát đối với 22 trẻ lớp mẫu giáo 3-4, trường Mầm non Rạng Đông như sau: Kết quả khảo sát đối với 22 trẻ trước khi áp dụng biện pháp: STT Nội dung khảo sát Kết quả trước khi áp dụng Đạt Tỷ lệ % Không đạt Tỷ lệ % 1 Tự gom rác và phân loại rác thải 7/22 31,8 % 15/22 68,2 % 2 Biết giữ gìn trật tự, vệ sinh công cộng, vệ sinh trường lớp, biết chăm sóc và bảo vệ cây 9/22 40,9 % 13/22 59,1 % 3 Biết cất dọn đồ dùng, đồ chơi đúng quy định 8/22 36,3 % 14/22 63,7 % 4 Biết tiết kiệm, điện nước khi sử dụng và tắt khi không sử dụng 8/22 36,3 % 14/22 63,7 % 5 Phân biệt được hành động đúng, hành động sai với môi trường 7/22 31,8 % 15/22 68,2 % * Với những thuận lợi và khó khăn trên tôi tìm cho mình một số biện pháp giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ 3-4 tuổi trong trường mầm non. Phấn đấu đến cuối năm các cháu lớp tôi phải đạt các mặt khảo sát từ 90% trở lên. 3. Các giải pháp 3.1. Tạo môi trường giáo dục ý thức bảo vệ môi trường thân thiện, gần gũi với trẻ Thiết kế xây dựng môi trường giáo dục thân thiện, gần gũi là một nhiệm vụ có ý nghĩa to lớn và quan trọng đối với sự phát triển của trẻ. Môi trường là yếu tố đầu tiên tác động đến các giác quan của trẻ, tạo cho trẻ cơ hội để thỏa sức tìm tòi, phát hiện, khám phá mọi điều mới lạ, và hấp dẫn trong cuộc sống. Qua đó trẻ tự do lựa chọn các hoạt động một cách tích cực. Nắm bắt được tầm quan trọng và ý nghĩa của việc xây dựng môi trường giáo dục, tôi đã xây dựng môi trường trong và ngoài lớp học theo hướng xanh, sạch, đẹp và thân thiện. 3.1.1. Môi trường trong lớp học Môi trường trong lớp học chính là sự sắp xếp, bày trí các góc chơi một cách hợp lý nhất, thuận tiện nhất cho trẻ hoạt động, để giáo dục bảo vệ môi trường. Nắm được tầm quan trọng của việc xây dựng môi trường rất cần thiết cho công tác giáo dục bảo vệ môi trường tôi luôn tìm tòi học tập kinh nghiệm từ đó sắp xếp các góc sao cho hợp lý, hấp dẫn kích thích trẻ tự do lựa chọn tham gia tùy theo sở thích và khả năng. Các góc không gian chính trong lớp học luôn được bố trí một cách sáng tạo, thân thiện, phù hợp với tâm lý của trẻ. Luôn sưu tầm và làm đồ dùng đồ chơi sáng tạo từ các nguyên vật liệu khác nhau, yêu cầu đẹp mắt và đảm bảo tiêu chí giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ. Bố trí góc xây dựng của lớp Ví dụ: Ở góc xây dựng, tôi bố trí xa các góc khác và sắp xếp không gian rộng rãi thuận tiện cho trẻ duy chuyển hoạt động, ngoài ra tôi thường xuyên sưu tầm các nguyên vật liệu thải bỏ thùng cacton, hợp sửa chua, chai nước,,, để tận dụng làm đồ chơi cho trẻ như xe ô tô, con thỏ, con hưu, ngôi nhà, cây cầu, ao hồ, nhà sàn,,,,,nổi bật đẹp mắt nhằm thu hút trẻ. Từ những đồ dùng, đồ chơi đó trẻ xây dựng nên các công trình nông trại thủy sản, ngã tư đường phố, chợ quê em, hay công viên nước theo sáng tạo riêng của trẻ, cũng từ đó giáo dục trẻ biết bảo vệ môi trường bỏ rác đúng nơi quy định, không vức rác xuống ao hồ, biết trồng nhiều cây xanh, chấp hành luật giao thông, tiết kiệm nguồn nước. Trẻ biết được các loại vật liệu phế thải khi được tái chế lại sẽ tạo ra những sản phẩm có ích trong quá trình vui chơi và học tập của bản thân. Hình ảnh góc bé bảo vệ môi trường và góc giáo dục lễ giáo của lớp Ví dụ: Tôi đã lựa chọn và xây dựng, góc bé yêu môi trường trong lớp học thật đẹp và phong phú khi sử dụng bìa cacton cắt dán mô phỏng hành động bảo vệ cây xanh để trang trí. Qua hình ảnh trực quan tôi thường xuyên trò chuyện với trẻ về cách chăm sóc cây xanh: Muốn cây phát triển tốt con phải làm gì? Con chăm sóc cây như thế nào? Con bón phân cho cây như thế nào? Giải thích cho trẻ hiểu tại sao chúng ta cần bảo vệ môi trường. Trẻ hiểu được tầm quan trọng của cây xanh đối với đời sống, trẻ biết cách chăm sóc các loài cây bằng việc tưới nước cho cây, bón phân và lặt lá sâu cho cây, ngoài ra trẻ còn biết thường xuyên thay đất cho cây có đủ dinh dưỡng. Bảo vệ cây xanh bằng cách không hái lá bẻ cành. Thông qua đó giúp trẻ trở nên chủ động hơn. Trẻ có thêm nhiều kĩ năng và biết tự giác khi tham gia hoạt động chăm sóc và bảo vê cây xanh. Ví dụ: Tôi đã sử dụng bìa cacton cùng giấy in màu để xây dựng góc giáo dục lễ giáo với nhiều hình ảnh mang tính giáo dục cao như: hình ảnh bé không vứt rác bừa bãi, biết dọn dẹp sân trường, lau chùi kệ, vệ sinh cá nhân,,,ở giữa lớp để trẻ dể dàng nhìn thấy và ghi nhớ. Mỗi ngày khi trẻ đến lớp, ở góc lễ giáo tôi và trẻ cùng trò chuyện kết hợp giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ. Sau khi trò chuyện trẻ thường thi đua bằng cách lựa chọn thực hiện một hành động bảo vệ môi trường và xem ai làm tốt nhất. Qua đó trẻ sẽ hình thành thói quen và có ý thức bảo vệ môi trường bỏ rác đúng nơi quy định, biết phân loại rác thải, khóa vòi nước cẩn thận để tiết kiệm nước,… 3.1.2. Môi trường ngoài lớp học Môi trường ngoài lớp học chính là không gian để trẻ thỏa sức tìm tòi, khám phá, sáng tạo tư duy là điều kiện đặc biệt nhất để giáo dục môi trường. Hiểu được giá trị quan trọng của việc xây dựng môi trường có lợi cho công tác giáo dục ý thức bảo vệ môi trường tôi nghiên cứu, lựa chọn và xây dựng các góc hợp lý, cuốn hút trẻ tham gia. Tôi bố trí các góc với đầy đủ nguyên liệu bắt mắt, thân thiện và nhiều đồ dùng, đồ chơi từ vật liệu tái chế giáo dục trẻ bảo vệ môi trường. Hình ảnh trẻ chăm sóc cây ở góc bé yêu thiên nhiên và góc bé sáng tạo của lớp Ví dụ: Bên ngoài lớp học, tôi cũng xây dựng thêm góc bé sáng tạo với không gian vô cùng rộng rãi, thoải mái. Nguyên liệu phong phú, đa dạng, gần gũi và bảo vệ môi trường: vỏ sò, vỏ nghêu, hủ susu, lá cây, hoa khô, hạt đậu đen,,,.Ở đó, trẻ thỏa sức tạo ra nhiều sản phẩm theo sở thích và khả năng, sử dụng lá cây để tạo hình chú cá xinh xắn, hay sử dụng màu nước để trang trí cây hoa thật đẹp, mang lại niềm vui, phấn khởi, rèn cho trẻ kĩ năng khéo léo của đôi tay và đặc biệt hơn là giáo dục trẻ biết sử dụng lại các vật liệu tái chế để tạo ra đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho các hoạt động của trẻ, hạn chế được lượng rác thải ra môi trường. Ví dụ: Khu vực hành lang của lớp tôi trang trí xây dựng, góc bé yêu thiên nhiên sạch, đẹp với nhiều loại cây khác nhau, đặc biệt tôi sử dụng lon sửa, bình nước giặc, chai dầu ăn, thùng nước sơn,,, đã qua sử dụng để tái chế tại thành những chậu cây với nhiều hình thù dể thương, màu sắc sặc sở thu hút trẻ. Vào mỗi buổi sáng hay trong hoạt động vui chơi ở góc thiên nhiên, tôi cho trẻ nói lên cảm xúc của mình khi được học trong ngôi trường xanh sạch đẹp, và trẻ phải làm gì để bảo vệ môi trường. Trẻ được tự tay chăm sóc cây cối, nhặt cỏ bắt sâu tưới nước, lau dọn các bồn cây chậu cảnh...Tình yêu thiên nhiên và môi trường của trẻ được vung đấp từng ngày. Việc tạo môi trường trong và ngoài lớp chính là yếu tố cần thiết và vô cùng quan trọng giúp trẻ có ý thức giữ gìn vệ sinh môi trường hình thành thói quen tự giác bảo vệ môi trường, được trực tiếp tham gia bảo vệ môi trường. 3.2. Lồng ghép ý thức bảo vệ môi trường vào các hoạt động trong ngày Lựa chọn nội dung dạy và học, giúp trẻ nâng cao hiểu biết cũng như các hành vi bảo vệ môi trường tôi đã tiến hành lồng ghép các nội dung giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ thông qua các hoạt động hằng ngày với hình thức ‘‘Học bằng chơi, chơi mà học’’. 3.2.1. Trong giờ đón- trả trẻ Thực hiện hành động tốt góp phần bảo vệ môi trường là một trong những nhiệm vụ cốt lỗi. Lồng ghép vào trong hoạt động đón- trả trẻ là vô cùng hiệu quả. Qua đó, trẻ sẽ hình thành kỹ năng và thói quen tốt về môi trường. Góp phần to lớn giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ. Tôi vừa giao tiếp với trẻ, với phụ huynh đồng thời cũng quan sát những hành động, kỹ năng của trẻ từ đó có những uốn nắn kịp thời. Dưới sự hướng dẫn của tôi trẻ biết để giày dép, cặp sách gọn gàng hơn ,tôi luôn theo dõi và nhắc nhở để hình thành thói quen cho trẻ. Ví dụ: Trường đã trang bị cho lớp ba kệ để dép, hai tủ đựng cặp rất sạch sẽ. Thế nhưng, đầu năm trẻ đến lớp không bỏ dép đúng nơi quy định, mang dép vào lớp, bỏ dép bừa bãi, ba lô không biết chổ cất, để xộc xệnh dưới đất, bỏ bừa vào tủ bạn khác, mở tủ mạnh tay. Tôi đã quan sát và đến tận nơi hướng dẫn trẻ giày dép phải cất lên kệ mới gọn gàng, giáo dục trẻ để dép cặp đôi không bị lẫn lộn trái phải sẽ đẹp mắt hơn. Ở tủ cặp cá nhân tôi dán cho mỗi trẻ một hình ticker trẻ sẽ dể dàng nhận biết tủ của mình. Tôi giáo dục trẻ giữ gin vệ sinh tủ cặp không vứt bỏ bánh kẹo vào tủ để cặp sách luôn sạch sẽ. Từ đó, trẻ có ý thức chủ động tự để dép lên kệ, biết sắp xếp dép gọn gàng, nhận biết tủ của mình và bỏ cặp đúng nơi quy định. Biết dọn, lau chùi khi thấy tủ bị bẩn và bảo vệ đồ dùng cá nhân bằng việc mở tủ nhẹ nhàng. Trẻ hiểu việc sắp xếp đồ dùng gọn gàng cũng là cách bảo vệ môi trường. Hình ảnh trẻ cất giày dép gọn gàng và hình ảnh trẻ cất cặp đúng nơi 3.2.2. Tích hợp trong các hoạt động học Nâng cao ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ em là nhiệm vụ trọng yếu. Việc lồng ghép nội dung này vào các hoạt động học tập là vô cùng cần thiết. Qua đó, trẻ em sẽ hình thành nhận thức về những hành vi đúng đắn để bảo vệ môi trường. Dù mỗi hoạt động đều có mục tiêu riêng, tôi luôn cố gắng kết hợp linh hoạt việc giáo dục trẻ về bảo vệ môi trường và tiết kiệm năng lượng. Mỗi chủ đề học tập, dù nội dung khác nhau, đều góp phần vun trồng ý thức bảo vệ môi trường cho các em. Ví dụ: Với chủ đề “Bản thân bé”, nâng cao nhận thức cho trẻ về tầm quan trọng của việc giữ gìn vệ sinh cá nhân và môi trường, nhằm bảo vệ sức khỏe. Khi chơi xong tay bị bẩn con sẽ làm gì? Khi nào con cần phải rửa tay? Giấy vệ sinh con sẽ bỏ ở đâu? Tại sao con phải bỏ giấy vệ sinh vào thùng? Theo con những hành vi đó có bảo vệ môi trường không? Vì sao?. Rèn luyện cho trẻ những hành vi và thói quen tốt trong ăn uống, như biết mời cô giáo, bạn bè và không ăn quà vặt ngoài đường, hạn chế dụi tay bẩn vào mắt, rửa mặt hàng ngày bằng nước và khăn sạch, biết đội mũ hoặc che ô khi ra nắng. Bên cạnh đó, giáo dục trẻ nhận biết các ký hiệu thông thường như nhà vệ sinh nam, nữ, thùng đựng rác, đồng thời nhận biết một số vật dụng và nơi nguy hiểm tiềm ẩn như dao, kéo, ổ cắm điện, ao, hồ.. Ví dụ: Với chủ đề “Gia đình”, giới thiệu với trẻ môi trường gia đình bao gồm các không gian sinh hoạt như: phòng ốc, nhà vệ sinh, sân vườn, cùng với nguồn nước và các vật dụng. Giáo dục trẻ hiểu sự ngăn nắp, gọn gàng trong cách sắp xếp đồ đạc, vệ sinh sạch sẽ, từ sân vườn đến các đồ dùng, đồ chơi, là yếu tố tạo nên một môi trường sống lành mạnh. Trẻ em cần được trang bị kiến thức về tác hại của môi trường bẩn đối với sức khỏe con người. Nếu phòng ngủ của con quá bẩn sẽ như thế nào? Con sẽ dể mắc các bệnh nhiễm khuẩn hô hấp nặng hơn nửa là bệnh phổi. Vậy nguồn nước bị ô nhiễm sẽ có tác hại gì? Ảnh hưởng nghiêm trọng đến thể chất và tinh thần trẻ sẽ mắc các bệnh như tiêu chảy, nhiễm khuẩn ecoli, bệnh ngoài da như chàm, mẩn ngứa, hoặc nhiễm trùng da ở trẻ. Từ những kiến thức đó hình thành ý thức giữ gìn vệ sinh, bảo quản đồ dùng gia đình. Trẻ biết cất đồ dùng, đồ chơi đúng chỗ, vứt rác đúng nơi quy định, tránh khạc nhổ bừa bãi, là những hành động thiết thực thể hiện sự tôn trọng môi trường sống. Ngoài ra, trẻ có ý thức tiết kiệm nguồn nước, điện năng bằng cách khóa vòi nước sau khi sử dụng, tắt điện khi ra khỏi phòng. Tham gia vào những công việc phù hợp như quét nhà, tưới cây, cũng là cách để trẻ góp phần tạo nên một môi trường sống xanh, sạch, đẹp cho gia đình. Ví dụ: Với chủ đề “Cây xanh và môi trường sống”, nhằm nâng cao nhận thức tôi cho trẻ xem video về vòng đời của cây xanh, lợi ích thiết yếu của cây xanh là hấp thụ và lưu trữ khí carbon dioxide, mang lại nhiều oxi cần thiết với môi trường sống, đồng thời khơi gợi sự thấu hiểu về hậu quả nghiêm trọng của nạn phá rừng bừa bãi gây ra mất cân bằng sinh thái, biến đổi khí hậu và xói mòn đất. Để trẻ khắc sâu hơn vai trò của cây xanh tôi sử dụng chai dầu ăn, chai bột giặt... để tạo nên những hình thù ngộ nghĩnh, thu hút trẻ tham gia trãi nghiệm "Trồng cây" cùng cô. Việc tự tay gieo trồng, chăm sóc và quan sát hàng ngày sẽ giúp trẻ trực tiếp khám phá và ghi nhớ quá trình phát triển của cây. Trẻ yêu thích trồng và chăm sóc cây bởi vì có cây xanh sẽ không có ô nhiễm môi trường. Ví dụ: Với chủ đề “Nước và Một số hiện tượng tự nhiên”, tôi cho trẻ xem hình ảnh hai nguồn nước các em nhận thức được sự khác biệt giữa nước sạch và nước bẩn, hiểu rõ nước sạch đóng vai trò vô cùng quan trọng trong cơ thể người vì nước chiếm đến 70 – 80% trọng lượng cơ thể, cung cấp nguồn chất khoáng, nước có khả năng đào thải các độc tố và tầm quan trọng của việc tiết kiệm nước là đảm bảo nguồn nước sạch để con người duy trì sự sống. Đồng thời, các em cũng được trang bị kiến thức về những nguồn nước ô nhiễm, nguyên nhân gây bệnh và cách phòng tránh. Tiếp đến, tôi trình chiếu những hình ảnh về mưa bão và lũ lụt tại miền Trung, khuyến khích các em đưa ra nhận xét và suy ngẫm. Qua đó, các em được làm quen với các hiện tượng thiên nhiên như mưa, gió, sấm sét, lũ lụt và hiểu rõ nguyên nhân gây ra các thảm họa như cháy rừng, sạt lở, bão lũ, là do con người chặt phá rừng trái phép và ô nhiễm môi trường. Hình ảnh trẻ trồng cây và hình ảnh trẻ thí nhiệm đặc điểm của không khí Ngoài ra một số hoạt động giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ như kết hợp giáo dục âm nhạc là một phương pháp hiệu quả giúp trẻ thêm hứng thú trong học tập. Lời ca giản dị, giai điệu vui tươi của những bài hát này không chỉ khơi gợi tình yêu thiên nhiên mà còn giúp trẻ liên kết cảm xúc với các hành động cụ thể như không vứt rác bừa bãi hay chăm sóc cây xanh. Âm nhạc không chỉ tạo ra môi trường học tập vui vẻ, sinh động mà còn kích thích khả năng ghi nhớ và củng cố kiến thức về bảo vệ môi trường một cách tự nhiên. Trong hoạt động làm quen với văn học, trẻ được tiếp cận với các bài thơ về môi trường, thiên nhiên và những hành động tác động tích cực hoặc tiêu cực đến môi trường sống của con người. Những bài thơ không chỉ mang đến cho trẻ sự hứng thú mà còn giúp các em hiểu sâu sắc hơn về vai trò của môi trường trong cuộc sống và trách nhiệm của mỗi cá nhân trong việc bảo vệ môi trường. Bên cạnh đó, trẻ còn khám phá được nhiều điều thú vị thông qua các hoạt động sáng tạo trong môn học tạo hình "Làm tranh từ lá cây," trẻ học cách tận dụng những vật liệu tưởng như vô tri vô giác hoặc bị bỏ đi, như lá cây, cành cây khô, ống hút nhựa, hay chai nhựa. Dưới sự hướng dẫn và qua đôi bàn tay khéo léo, những vật dụng này được trẻ biến hóa thành các sản phẩm nghệ thuật đầy ý nghĩa. Hoạt động này không chỉ khơi dậy khả năng sáng tạo và rèn luyện kỹ năng thủ công cho trẻ, mà còn giúp các em nhận thức rõ hơn về giá trị của việc tái chế và bảo vệ môi trường. Qua đó, trẻ hiểu rằng việc sử dụng lại những vật liệu này không chỉ giảm thiểu rác thải mà còn góp phần tạo nên môi trường sống xanh, sạch, đẹp hơn. Hoạt động phát triển tình cảm và kỹ năng xã hội như “Bé tập làm vệ sinh môi trường” giúp trẻ nhận thức được tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường xanh, sạch và đẹp. Trong hoạt động này, trẻ không chỉ học lý thuyết mà còn có cơ hội thực hành, trực tiếp tham gia vào việc nhặt và vứt rác đúng nơi quy định. Thông qua đó, trẻ hình thành thói quen giữ gìn vệ sinh chung và hiểu rằng mỗi hành động của mình đều có ảnh hưởng đến sự sạch sẽ của môi trường xung quanh. Sự tham gia của trẻ vào những hoạt động đa dạng như phát triển thể chất, khám phá khoa học, âm nhạc, tiếp cận văn học,..là vô cùng cần thiết. Mỗi hoạt động mang trong mình những nét đặc thù riêng biệt, tạo điều kiện cho trẻ rèn luyện kỹ năng quan sát, giao tiếp, thực hành, thí nghiệm, vui chơi. Qua những trải nghiệm này, trẻ sẽ tự nhận thức về hành vi đúng đắn, sai trái, từ đó hình thành suy nghĩ, bộc lộ cảm xúc một cách phù hợp với môi trường học tập và cuộc sống. 3.2.3. Trong giờ hoạt động ngoài trời Hoạt động vui chơi ngoài trời đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển toàn diện của trẻ nhỏ. Bên cạnh việc tạo điều kiện cho trẻ vận động, hoạt động này còn góp phần làm phong phú kiến thức về môi trường xung quanh, đồng thời rèn luyện cho trẻ những kỹ năng ứng xử văn minh nơi công cộng. Việc tổ chức những trải nghiệm thực tế cho trẻ là điều cần thiết, đặc biệt khi trường học sở hữu một khuôn viên rộng rãi, thoáng đãng với hệ sinh thái đa dạng, bao gồm cây xanh, cây cảnh, vườn hoa và vườn rau. Giúp trẻ được tiếp cận một cách tự nhiên với những khái niệm cơ bản về môi trường như: môi trường sạch, ô nhiễm môi trường, tác hại của ô nhiễm và ý nghĩa của việc bảo vệ môi trường. Thông qua những câu hỏi gợi mở, trẻ sẽ được khuyến khích chia sẻ những quan sát của mình. Từ đó, trẻ sẽ tự suy luận và đưa ra những ý kiến cá nhân, thể hiện sự tự tin, độc lập và lòng ham hiểu biết. Việc học hỏi trong môi trường thực tế giúp trẻ tiếp thu kiến thức một cách tự nhiên, hiệu quả, tạo nền tảng vững chắc cho ý thức bảo vệ môi trường và cây xanh. Ví dụ: Cô dắt trẻ quan sát vườn rau trong khuôn viên trường. Đàm thoại với trẻ trong vườn rau này có bao nhiêu loại rau: Rau mồng tơi có đặc điểm gì? Rau có màu gì? Rau muống có đặc điểm gì? Rau cung cấp cho chúng ta chất gì? Muốn rau tươi tốt thì con cần làm gì? Con chăm sóc rau như thế nào? Giáo dục trẻ rau xanh là thức ăn cần thiết cho cơ thể, ăn nhiều rau để tốt cho sức khỏe, tăng cường sức đề kháng và phòng chống các bệnh mãng tính. Hiểu được tầm quan trọng của rau xanh trẻ thường xuyên tưới nước bón phân hữu cơ cho rau, biết thu dọn rác trong vườn rau giúp cô, sau khi nhặt lá úa trẻ sẽ bỏ vào thùng rác không vức lung tung để bảo vệ môi trường. Tôi luôn dành lời khen gợi khi trẻ biết bảo vệ môi trường. Hình ảnh trẻ chăm sóc vườn rau cùng cô và bạn Hoạt động ngoài trời còn góp phần việc hình thành và phát triển ở trẻ nhỏ những phẩm chất tích cực như sự chủ động và năng động. Việc tiếp xúc trực tiếp với thiên nhiên không chỉ mở rộng kiến thức của trẻ về môi trường sống xung quanh mà còn là cơ hội để củng cố và ứng dụng những kiến thức đã được học trong thực tế. Ví dụ: Hoạt động "Trò chuyện về cách giữ gìn sân chơi sạch sẽ". Cô cho trẻ dạo quanh sân trường, sau đó thông qua việc quan sát cô hỏi trẻ con thấy trên sân trường có gì? Trẻ chia sẻ những gì trẻ nhìn thấy trên sân chơi: lá cây rụng, vỏ bánh, vỏ hộp sữa...Vậy để sân chơi của mình luôn được sạch đẹp các con phải làm gì? Tại sao chúng ta phải nhặt rác? Trẻ sẽ tự do thể hiện những suy nghĩ và ý tưởng riêng của mình: Con sẽ nhặt rác, con sẽ gom rác và bỏ vào thùng đựng rác., Nhặt rác giúp môi trường đất, nước và không khí không bị ô nhiễm, tiêu diệt vi khuẩn và làm cho cuộc sống của chúng ta thoải mái và dễ chịu hơn. Vậy nhặt rác thế nào là đúng cách ? Nhặt như thế nào để bảo vệ bản thân? Hướng dẫn trẻ phân loại rác tái chế được đâu là rác không tái chế được bỏ đúng nơi, chuẩn bị cho trẻ 1 túi rác giấy và 1 que gắp, để có thể tự gắp rác bỏ vào túi nilon. Bỏ rác đúng nơi quy định là một hành động hết sức đơn giản nhưng nó mang lại ý nghĩa vô cùng to lớn cho môi trường và con người Hình ảnh trẻ nhặt rác và phân loại rác thải Ví dụ: Tôi cho trẻ xem “các hành vi đúng-sai” với môi trường. Sau đó hỏi trẻ về từng bức hình. Con thấy gì ở 2 bức hình này? Bức hình thứ nhất bạn đang làm gì? Bức hình thứ hai bạn xả rác xuống ao là đúng không? Vì sao? Nếu con thấy bạn có hành vi không đúng con sẽ làm gì? Trẻ dùng kinh nghiệm nhận thức của bản thân để trả lời câu hởi của tôi, bạn bỏ rác vào thùng là hành vi đúng, vì rác thải phải được bỏ đúng nơi quy định, để bảo vệ môi trường nếu vức bừa bãi sẽ gây ô nhiễm môi trường. Bạn với hành vi xả rác xuống ao sen như vậy là không đúng, vì chưa bỏ rác đúng nơi quy định, gây ra ô nhiễm môi trường nước, làm chết các loài cá sinh sống trong hồ. Và nếu phát hiện bạn có hành vi không đúng chúng ta cần giải thích và hướng dẫn để trẻ thực hiện tốt hơn. Hình ảnh trẻ bỏ rác vào thùng, hình ảnh trẻ vức rác xuống ao Việc hình thành thói quen phân loại rác từ sớm là nền tảng vững chắc cho hành vi ứng xử có trách nhiệm với môi trường của các em trong tương lai. Góp phần nâng cao ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ thông qua các hoạt động quan sát, trò chuyện, giải thích và giáo dục ra tôi luôn dành lời khen và khích lệ để trẻ có hứng thú hơn 3.2.4. Trong giờ hoạt động chơi Hoạt động chơi đóng vai trò là phương tiện hiệu quả góp phần thúc đẩy sự phát triển toàn diện của trẻ, đặc biệt là trong việc hình thành nhân cách và ý thức bảo vệ môi trường. Thông qua việc phản ánh cuộc sống và môi trường xung quanh, trẻ được mô phỏng lại các hành động quen thuộc của người lớn, thỏa sức sáng tạo từ đó tiếp thu kiến thức, kỹ năng sống. Các góc chơi cần được sắp xếp khoa học, phù hợp với chủ đề, đảm bảo tính an toàn, thẩm mỹ, phong phú, đủ diện tích cho trẻ hoạt động, người giáo viên cần hướng dẫn và gợi mở cho trẻ một cách rõ ràng, chi tiết, đồng thời chuẩn bị đầy đủ các đồ dùng, đồ chơi đa dạng và phong phú nhằm thu hút sự chú ý và tham gia tích cực của trẻ. Giáo dục về việc sử dụng đồ chơi đúng chức năng, sắp xếp đồ chơi gọn gàng, vệ sinh đồ chơi khi thấy bẩn. Bên cạnh việc tạo cơ hội cho trẻ phát triển các kỹ năng xã hội và trí tuệ, hoạt động góc cũng là dịp để giáo dục trẻ về bảo vệ môi trường. Hình ảnh trẻ chơi ở góc gia đình, hình ảnh trẻ chơi ở góc nghệ thuật Ví dụ: Trong góc gia đình, tôi chuẩn bị đồ dùng, đồ chơi đầy đủ và phong phú từ đồ chơi nhựa đến đồ chơi được tái chế từ bìa cacton, chai sửa, hủ susu. Tôi sắp xếp góc chơi hợp lý và không gian rộng rãi cho trẻ hoạt động. Giáo viên hướng dẫn trẻ đóng vai: be, mẹ, anh chị, em trong gia đình và thực hiện các công việc nội trợ như lặt rau phần góc bỏ vào sọt rác, cá thịt mua về sơ chế sạch bằng nước, xả nước đủ dùng không mở vòi chảy khi khi mới nấu, khi phải tiết kiệm ga, tắt khi không sử dụng nửa, thu dọn chén bát dơ đi rửa,,,sau khi chơi xong nhắc nhở trẻ về ý thức giữ gìn vệ sinh thu gom đồ chơi gọn gàng, dọn dẹp lau chùi kệ bẩn, nhặt rác xung quanh khu vực chơi, bỏ rác đúng nơi quy định. Ví dụ: Ở góc nghệ thuật, tôi chuẩn bị cho trẻ các nguyên vật liệu tự nhiên và đã qua sử dụng như: lá cây, hoa khô, rom, bẹ, vỏ chai nước khoáng, vỏ hộp sữa, vỏ thạch, vỏ sò, que kem...Các loại dụng cụ âm nhạc làm từ: nồi, ca, chén, nắp vun cũ của gia đình, những bài hát về bảo vệ môi trường, một số x ọt rác mini. Tôi trò chuyện, gợi ý cho trẻ các ý tưởng để tạo ra những sản phẩm phong phú: làm tranh từ lá cây, làm dây chuyền từ vỏ sò, dây deo tay từ hột hạt, tạo hình con cá từ vỏ sò...Trong khi trẻ thực hiện tôi thường nhắc nhở trẻ bỏ giấy vụn, băng keo vào xọt rác và rèn luyện kỹ năng tiết kiệm sử dụng keo, hồ đủ dùng không đổ nhiều lãng phí. Kết thúc hoạt động, trẻ thu gom rác bỏ đúng nơi quy định, lau chùi bàn ghế, dọn dẹp sạch sẽ nơi mình hoạt động. Thông qua hoạt động, trẻ biết sử dụng các nguyên liệu tái chế gó p phần giảm thiểu lượng rác thải ra môi trường. 3.2.5. Giáo dục mọi lúc mọi nơi Việc cung cấp dinh dưỡng và nghỉ ngơi đầy đủ là yếu tố nền tảng trong việc hình thành nề nếp sinh hoạt cho trẻ, góp phần đảm bảo sức khỏe toàn diện. Ăn uống và nghỉ ngơi không chỉ đáp ứng nhu cầu sinh lý cơ bản mà còn tạo điều kiện cho trẻ có ý thức bảo vệ môi trường. Để hình thành thói quen tốt, giáo viên thường xuyên hướng dẫn rõ ràng và chi tiết, tạo điều kiện, khuyến khích trẻ tham gia các hoạt động tự phục vụ. Giúp trẻ nhận thấy lợi ích của việc ăn uống và nghỉ ngơi đúng cách tốt cho sức khỏe và bảo vệ môi trường. Trẻ giúp cô kê bàn và ngồi ăn nghiêm túc Ví dụ: Trong giờ ăn của trẻ, tôi thường phân công trẻ kê bàn ăn giúp, tôi quan sát và hướng dẫn trẻ kê ngay ngắn, trải bàn ăn đẹp mắt. Trong bữa ăn, ân cần chúc trẻ ăn uống ngon miệng. Khuyến khích, động viên trẻ tự xúc ăn, nhai kỹ, dùng hết suất ăn, đồng thời lưu ý việc che miệng khi ho, tránh nói chuyện trong lúc dùng bữa nhằm hình thành thói quen ứng xử văn minh lịch thiệp, nhắc nhở trẻ không vứt đồ ăn xuống đất, sử dụng đĩa đựng thức ăn thừa, cơm rơi vãi. Sau khi dùng xong bữa, trẻ bỏ chén vào vị trí quy định một cách gọn gàng, trẻ lau bàn ghế khi bẩn và sắp xếp lại thật ngăn nắp. Tiếp đến, tôi hướng dẫn trẻ vệ sinh cá nhân đúng cách và nghiêm túc. Trẻ biết xếp hàng chờ tới lượt rửa tay bằng xà phòng theo quy trình 6, sau đó trẻ lấy kem để đánh răng tôi giáo dục trẻ lấy vừa đủ dùng không lấy quá nhiều, nhắc nhở trẻ đánh nhẹ nhàng. Trẻ được khuyến khích tiết kiệm nước bằng cách sử dụng cốc hứng nước, tránh việc vặn vòi nước chảy liên tục khi đánh răng. Để duy trì môi trường sống lành mạnh, trẻ được nhắc nhở giữ gìn vệ sinh phòng nhóm, đảm bảo sạch sẽ. Việc đi vệ sinh được thực hiện đúng nơi quy định. Trong giờ ngủ trưa, tôi hướng dẫn trẻ tự trải niệm, lấy chăn và ngủ đúng vị trí quy định. Tôi cũng nhắc nhở trẻ không đùa nghịch, không nói chuyện ồn ào trong giờ ngủ để giữ không khí yên tĩnh. Hình ảnh trẻ tự vệ sinh cá nhân và hình ảnh trẻ trãi niệm gối khi ngủ Trẻ em có khả năng tự phục vụ bản thân, từ việc đi vệ sinh đúng nơi quy định đến việc giữ gìn vệ sinh cá nhân sau khi sử dụng nhà vệ sinh. Hành động ăn uống gọn gàng, tiết kiệm thức ăn không chỉ thể hiện sự tôn trọng đối với nguồn lương thực mà còn góp phần bảo vệ môi trường sống. Đồng thời, việc tự lập giúp trẻ hình thành ý thức tự hào về bản thân, đóng góp vào việc xây dựng một môi trường sống xanh, sạch, đẹp. Trẻ được giáo dục về việc sử dụng đồ chơi đúng chức năng, sắp xếp đồ chơi gọn gàng, vệ sinh đồ chơi khi thấy bẩn, vệ sinh theo kế hoạch. Bên cạnh đó, giáo viên cần thường xuyên giao nhiệm vụ cho trẻ qua bảng phân công trực nhật hàng ngày, giúp trẻ hình thành ý thức tự giác, biết giúp đỡ cô giáo lau dọn giá đồ dùng, đồ chơi, biết sắp xếp đồ dùng đúng nơi quy định. Ví dụ: Vào thứ 6 cuối tuần tôi cho trẻ vệ sinh môi trường xung quanh lớp. Tổ 1: Chăm sóc góc thiên nhiên. Tổ 2: Thu gom rác xung quanh trường Tổ 3: Lau chùi dọn dẹp, sắp xếp tủ đồ dùng đồ chơi Sau khi trẻ hoàn thành công việc, tôi cho trẻ cùng nhau quan sát và nhận xét về sự thay đổi của khuôn viên lớp trước và sau khi lao động. Điều này giúp trẻ cảm nhận được niềm vui khi tham gia lao động, cũng như thấy được kết quả rõ ràng từ những nỗ lực của mình. Trẻ sẽ nhìn thấy môi trường xung quanh trở nên sạch sẽ và đẹp đẽ hơn, từ đó tự hào về thành quả lao động và hình thành ý thức bảo vệ môi trường. Qua các hoạt động giáo dục bảo vệ môi trường được tích hợp vào các giờ học, tôi nhận thấy trẻ không chỉ có ý thức bảo vệ môi trường mà còn hình thành thói quen tham gia vào các công việc lao động tập thể. 3.3. Ứng dụng giáo dục STEAM. Nâng cao ý thức bảo vệ môi trường ở trẻ việc ứng dụng phương pháp giáo dục STEAM nhằm nâng cao ý thức bảo vệ môi trường ở trẻ em là một giải pháp hiệu quả, giúp trẻ không chỉ tiếp cận kiến thức khoa học một cách trực quan, sinh động mà còn trau dồi kỹ năng thực hành, rèn luyện tư duy sáng tạo và đặc biệt là hình thành thói quen bảo vệ môi trường từ những hành động nhỏ nhất. Thông qua các hoạt động STEAM, trẻ được trực tiếp trải nghiệm, khám phá và thấu hiểu, góp phần định hình ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ từ những hành động nhỏ nhất. Hình ảnh trẻ thu gom nguyên liệu và cùng cô làm đồ dùng, đồ chơi Ví dụ: Trong dự án "Làm đồ dùng cùng cô", trẻ được xem những hình ảnh về môi trường bị ô nhiễm, những tác động tiêu cực từ việc thải rác bừa bãi. Cô và trẻ cùng thu gom và sưu tầm các loại nguyên vật liệu tái chế như: Thùng cacton, bình dầu ăn, lon sửa, hủ susu của trẻ uống, hộp sửa,,,Sau đó, trẻ được hướng dẫn cách tái chế những vật liệu đã qua sử dụng để tạo ra đồ dùng, đồ chơi như: chiếc xe, con hưu, con voi, ngôi nhà, thùng rác.... Trong quá trình thực hiện, trẻ được tự do phát huy khả năng sáng tạo, trao đổi ý tưởng, cùng nhau thảo luận và thực hành. Quá trình này không chỉ giúp trẻ rèn luyện kỹ năng làm việc nhóm, khả năng thuyết trình mà còn tạo cơ hội để trẻ chia sẻ, học hỏi lẫn nhau. Bên cạnh đó, việc đặt những câu hỏi gợi mở như "Nhóm con làm được sản phẩm gì?", "Sản phẩm con là từ những vật liệu gì?", "Sản phẩm mang đến thông điệp gì?" giúp trẻ suy ngẫm về mục đích, ý nghĩa của việc tái chế, từ đó nâng cao ý thức bảo vệ môi trường. Trẻ học cách lựa chọn những nguyên vật liệu đã qua sử dụng để tái chế thành những sản phẩm hữu ích, góp phần giảm thiểu lượng rác thải ra môi trường. Chẳng hạn, trẻ có thể cùng bố mẹ sử dụng những vật liệu tái chế như chai nhựa, giấy báo để tạo ra những sản phẩm như chậu cây, hộp đựng đồ, đồ chơi, trang phục biểu diễn thời trang... điều này không chỉ giúp trẻ nâng cao ý thức bảo vệ môi trường mà còn tạo điều kiện cho trẻ rèn luyện kỹ năng thực hành, phát triển khả năng sáng tạo. Kết thúc mỗi hoạt động, giáo viên cần khẳng định lại tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường, đồng thời nhắc nhở trẻ duy trì thói quen bảo vệ môi trường trong cuộc sống hàng ngày. Ngoài việc sử dụng nguyên vật liệu tái chế, giáo viên nên khuyến khích sử dụng các loại nguyên vật liệu tự nhiên, thân thiện với môi trường như hạt, lá cây, cành cây... để trang trí, tạo góc chơi và cho trẻ trải nghiệm. Điều này giúp trẻ hiểu rõ hơn về việc bảo vệ môi trường, đồng thời tạo điều kiện cho trẻ được tiếp xúc với thiên nhiên, rèn luyện khả năng sáng tạo và tăng cường sự gắn kết với môi trường sống. Tóm lại, ứng dụng STEAM trong giáo dục là một phương pháp hiệu quả giúp nâng cao ý thức bảo vệ môi trường ở trẻ, đồng thời rèn luyện kỹ năng thực hành, tư duy sáng tạo và phát triển toàn diện cho trẻ Hình ảnh trang phục từ vật liệu tái chế và hình ảnh tranh từ lá cây và hoa khô Trong hoạt động trải nghiệm STEAM, trẻ có cơ hội khám phá những ứng dụng thực tiễn của khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học trong đời sống hàng ngày. Qua các hoạt động này, trẻ không chỉ nhận thức được vai trò quan trọng của các lĩnh vực này đối với cuộc sống mà còn nâng cao sự hứng thú và động lực học tập các môn học STEAM, giúp trẻ phát triển tư duy sáng tạo và khám phá thế giới xung quanh một cách sinh động và thú vị. 3.4. Biện pháp giáo dục bảo vệ môi trường thông qua hoạt động trải nghiệm Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường thông qua hoạt động trãi nghiệm là biện pháp vô cùng hứng thú và hấp dẫn. Trẻ hiểu về thế giới xung quanh và cuộc sống thực tế hơn. Qua đó giáo dục trẻ về việc giữ gìn và bảo vệ môi trường. Thông qua các hoạt động dạo chơi, tham quan, trẻ được tìm tòi khám phá, chủ động sáng tạo, phát huy được tính tích cực của trẻ. Được tiếp xúc và thể hiện thái độ trực tiếp của mình với môi trường sống. Ví dụ: Trong ngày hội “phiên chợ gắn kêt yêu thương” với ý nghĩa giúp đỡ trẻ em nghèo hiếu học còn là sân chơi cho trẻ trãi nghiệm về cuộc sống thực tế. Trẻ sưu tầm nguyên liệu thải bỏ như: lá cây, bìa cacton, lon sửa, bình nước giặc sau đó được cô hướng dẫn trẻ tạo ra xe ô tô, chậu cây, tranh ảnh để bán trong ngày hội nhằm gây quỹ hổ trợ cho các bạn. Trẻ được dạo chơi và tham gia bán hàng cùng cô. Khi tham gia, trẻ có kĩ năng lựa chọn hàng hóa: lựa quả tươi ngon, không bị hư hỏng. Học hỏi được cách giao tiếp: nói chuyện lịch sự, nhã nhặn với mọi người, ngoài ra còn giúp trẻ nhận biết môi trường có nhiều rác thải. Trẻ thể hiện ý thực bảo vệ môi trường khi đi chơi nơi công cộng không xã rác bừa bãi, khi thấy có rác thải trẻ tự giác nhặt rác, khi ăn uống quà bánh biết bỏ rác đúng nơi quy định, sử dụng túi giấy thay túi nilon để đựng hàng hóa. Thông qua đó, giúp trẻ tự tin sáng tạo và nâng cao được ý thức bảo vệ môi trường, vì không có rác thải sẽ không có ô nhiễm môi trường. Hình ảnh phiên chợ găn kết yêu thương Ví dụ: Để gieo mầm ý thức bảo vệ môi trường trong lòng trẻ thơ, nhà trường đã triển khai nhiều hoạt động đa dạng, phong phú như ngày hội "Vì môi trường xanh" được phân công ở khu vực vườn cổ tích, tôi cùng trẻ di chuyển đến vườn, đầu tiên tôi cho trẻ quan sát và cùng nhau trò chuyện. Con thấy khu vườn hôm nay thế nào? Trong vườn có nhiều rác do lá rụng, một vài bịt nilon, và lá úa của cây làm cho cảnh quan không được đẹp mắt. Vậy chúng ta làm gì để vườn được sạch sẽ? Cùng nhau thu gom rác thải, phân loại rác, và trồng thật nhiều cây xanh. Tại sao phải trồng nhiều cây xanh vậy con? Bởi vì, cây xanh giúp cho không khí được trong lành tốt cho sức khỏe. Tôi giáo dục trẻ bỏ rác đúng nơi quy định, phân loại rác thải. Chúng tôi bắt đầu từ việc thu gom rác, trẻ nhặt lá, lặt lá úa cho cây và hoa trong vườn bỏ vào thùng đựng rác hữu cơ còn túi nilon được đựng ở rác vô cơ. Tôi chuẩn bị chậu cảnh nhỏ làm từ lon sửa, bình nước suối góp phần tô điểm cho khung cảnh vườn trường thêm rạng rỡ. Với khẩu hiệu "Mỗi người hãy trồng thêm một cây xanh là thêm một hành động bảo vệ môi trường" trẻ vô cùng háo hứng tham gia, tôi hướng dẫn trẻ đào lỗ, đổ phân và cuối cùng là tưới nước cho cây. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, tôi cho trẻ nêu cảm nhận của mình về môi trường, trẻ yêu thích môi trường sạch đẹp và thích thú với công việc bảo vệ môi trường của mình. 3.5. Phối kết hợp với phụ huynh trong việc nâng cao ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ Vai trò của phụ huynh trong việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ mầm non là vô cùng quan trọng. Không chỉ là người trực tiếp rèn luyện nề nếp, thói quen cho con em mình, phụ huynh còn là cầu nối để lan tỏa thông điệp bảo vệ môi trường đến cộng đồng. Sự phối hợp nhịp nhàng giữa gia đình và nhóm lớp đóng vai trò then chốt trong việc hình thành ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ. Để lan tỏa thông điệp bảo vệ môi trường đến phụ huynh, giáo viên đã tận dụng các phương tiện truyền thông hiện đại như nhóm Zalo lớp học và bảng tuyên truyền. Các buổi họp phụ huynh, giờ trả trẻ, khuyến khích phụ huynh tham gia cùng trẻ. Qua đó, phụ huynh không chỉ được chứng kiến con em mình vui chơi với các trò chơi sáng tạo từ vật liệu tái chế mà còn nhận thức rõ hơn về tầm quan trọng của việc giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ. Thiết lập góc tuyên truyền ngay tại cửa lớp với những hình ảnh minh họa như: tệ nạn chặt phá rừng, lũ lụt, thiên tai, dịch bệnh, ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường đến sức khỏe con người... Kết hợp những hình ảnh tích cực về bảo vệ môi trường như: trẻ em diệt ruồi muỗi, rửa tay sạch sẽ, tắt quạt, tiết kiệm điện, nhặt lá rụng, quét rác, tưới cây, đội mũ bảo hiểm khi đi xe máy... để tạo nên sự tương phản, khơi gợi suy ngẫm và hành động tích cực từ phía phụ huynh. Thông điệp được truyền tải rõ ràng: bảo vệ môi trường chính là bảo vệ tương lai của trẻ, tạo dựng một môi trường sống an toàn và lành mạnh cho thế hệ mai sau. Thiết kế góc "Cha mẹ cùng quan tâm" với những tranh ảnh, khẩu hiệu về bảo vệ môi trường do cô giáo và trẻ cùng thực hiện, tạo sự thu hút và dễ tiếp cận với phụ huynh. Tài liệu về môi trường và hình ảnh minh họa như: tệ nạn chặt phá rừng, lũ lụt, thiên tai, dịch bệnh, ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường đến sức khỏe con người... Kết hợp những hình ảnh tích cực về bảo vệ môi trường như: trẻ em diệt ruồi muỗi, rửa tay sạch sẽ, tắt quạt, tiết kiệm điện, nhặt lá rụng, quét rác, tưới cây, đội mũ bảo hiểm khi đi xe máy... để tạo nên sự tương phản, khơi gợi suy ngẫm và hành động tích cực từ phía phụ huynh. Lồng ghép nội dung tuyên truyền về tầm quan trọng của giáo dục bảo vệ môi trường vào các buổi họp phụ huynh. Khuyến khích phụ huynh rèn luyện cho trẻ thói quen giữ gìn vệ sinh nhà cửa, cùng bố mẹ chăm sóc cây xanh trong gia đình. Trong buổi đón trả trẻ, giáo viên cần nhắc nhở phụ huynh thường xuyên giáo dục trẻ về bảo vệ môi trường, hướng dẫn phụ huynh cách để xe đúng quy định, tránh gây ảnh hưởng đến môi trường chung, trưng bày sản phẩm của trẻ được chế tạo từ nguyên vật liệu tái chế để giới thiệu với phụ huynh, khơi gợi sự sáng tạo và khả năng tái sử dụng của trẻ. Hình ảnh phụ huynh ủng hộ nguyên vật liệu thải bỏ, cây xanh cho lớp Ngoài ra tôi còn vận động phụ huynh hỗ trợ các nguyên vật liệu thải bỏ như chai nhựa, hợp sửa, bìa cacton để tạo ra đồ chơi, đồ dùng đơn giản cho trẻ bổ sung ở các góc hay đóng góp cây xanh để trồng xung quanh lớp cho trẻ tự chăm sóc cũng là một cách để khuyến khích phụ huynh tham gia vào hoạt động bảo vệ môi trường.. Cuối cùng, tôi bổ sung thêm các loại sách báo, tạp chí, để làm phong phú thêm góc chơi của trẻ. Ở các góc chơi, tôi trưng bày sản phẩm của trẻ được chế tạo từ nguyên vật liệu tái chế để giới thiệu với phụ huynh, khơi gợi sự sáng tạo và khả năng tái sử dụng của trẻ. Phụ huynh đồng hành cùng giáo viên, hướng dẫn trẻ những hành động thiết thực như: dọn dẹp nhà cửa cùng bố mẹ, biết cất đồ dùng, đồ chơi gọn gàng, vứt rác đúng nơi quy định, không phá hoại cây cối, chăm sóc vật nuôi cây trồng và tự phục vụ bản thân. Để nâng cao nhận thức của phụ huynh về vấn đề môi trường, giáo viên cần triển khai nhiều hoạt động tuyên truyền hiệu quả. Hình ảnh trẻ phụ giúp mẹ tưới cây và cất đồ chơi ( do phụ huynh cung cấp) Sự phối hợp chặt chẽ giữa phụ huynh, nhóm lớp đã tạo nên sự đồng lòng và hiệu quả rõ rệt trong việc nâng cao chất lượng giáo dục bảo vệ môi trường. Sự gắn kết này là minh chứng cho vai trò quan trọng của sự hợp tác giữa gia đình và nhà trường trong việc hình thành ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ. 4. Kết quả Qua một thời gian áp dụng biện pháp trên 22 trẻ tôi thấy tỷ lệ trẻ đạt các nội dung đều được tăng lên rõ rệt. Trẻ có hành vi, kỹ năng, thói quen tốt bảo vệ môi trường biết đi vệ sinh đúng chỗ, bỏ rác đúng nơi quy định, biết tiết kiệm nước và biết phân biệt hành động đúng, sai đối với môi trường. Trẻ yêu lao động và tạo ra cái đẹp. Trẻ có ý thức giữ gìn và bảo vệ môi trường lớp, nhà trường cũng như gia đình, kết quả cụ thể như sau: Bảng kết quả sau khi thực hiện biện pháp STT Nội dung khảo sát Kết quả sau khi áp dụng Đạt Tỷ lệ % Không đạt Tỷ lệ % 1 Tự gom rác và phân loại rác thải 20/22 90,9 % 2/22 9,1 % 2 Biết giữ gìn trật tự, vệ sinh công cộng, vệ sinh trường lớp, biết chăm sóc và bảo vệ cây 21/22 95,5 % 1/22 4,6 % 3 Biết cất dọn đồ dùng, đồ chơi đúng quy định 22/22 100 % 0/22 0 % 4 Biết tiết kiệm, điện nước khi sử dụng và tắt khi không sử dụng 20/22 90,9 % 2/22 9,1 % 5 Phân biệt được hành động đúng, hành động sai với môi trường 21/22 95,5 % 1/22 4,6 % III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 1. Kết luận Bảo vệ môi trường là trách nhiệm chung của toàn xã hội, và việc giáo dục ý thức này cần được bắt đầu từ những giai đoạn đầu đời của trẻ. Đề tài “Biện pháp giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ 3-4 tuổi trong trường mầm non” không chỉ nhằm mục tiêu trang bị cho trẻ những hiểu biết cơ bản mà còn hướng tới việc hình thành những thói quen tích cực, bền vững ngay từ nhỏ. Thông qua quá trình nghiên cứu và thực hiện, đề tài đã khẳng định rằng việc giáo dục bảo vệ môi trường cần được lồng ghép linh hoạt vào các hoạt động học tập, vui chơi hàng ngày của trẻ. Những biện pháp như tổ chức các hoạt động trải nghiệm thực tế, xây dựng môi trường học tập thân thiện, tạo cơ hội để trẻ tương tác với thiên nhiên và vận dụng các phương pháp giáo dục hiện đại đã đem lại hiệu quả rõ rệt trong việc nâng cao nhận thức và hành động của trẻ đối với môi trường xung quanh. Thúc đẩy nhờ sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường, giáo viên, phụ huynh và cộng đồng. Những thói quen tốt của trẻ như phân loại rác, tiết kiệm nước, chăm sóc cây xanh không chỉ giúp trẻ hiểu rõ giá trị của thiên nhiên mà còn lan tỏa ý thức bảo vệ môi trường đến gia đình và xã hội. Tuy nhiên, để đạt được hiệu quả lâu dài, việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ cần sự kiên trì, nhất quán và sự hỗ trợ không ngừng từ mọi phía. Đồng thời, các nhà trường cần chú trọng đầu tư cơ sở vật chất, tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên và học sinh thực hiện những hoạt động giáo dục môi trường một cách hiệu quả nhất. Nhìn chung, việc nâng cao ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ không chỉ là nhiệm vụ trước mắt mà còn là trách nhiệm lâu dài, góp phần xây dựng một thế hệ công dân có trách nhiệm, yêu thiên nhiên và biết bảo vệ hành tinh xanh. Đề tài này không chỉ mang ý nghĩa giáo dục trẻ mà còn là thông điệp mạnh mẽ gửi tới cộng đồng về vai trò quan trọng của việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường, tạo dựng nền tảng vững chắc cho một xã hội phát triển bền vững. 2. Kiến nghị Bộ phận chuyên môn xây dựng kế hoạch chi tiết, định hướng rõ ràng trong việc tích hợp nội dung giáo dục bảo vệ môi trường vào chương trình giảng dạy cho trẻ mầm non, đảm bảo phù hợp với từng độ tuổi. Thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, hội thảo chuyên đề cho giáo viên mầm non về phương pháp giảng dạy sáng tạo, hiệu quả liên quan đến bảo vệ môi trường. Tạo điều kiện để các giáo viên chia sẻ, phổ biến và nhân rộng các sáng kiến hiệu quả trong giáo dục bảo vệ môi trường, đồng thời có hình thức khen thưởng để khích lệ tinh thần sáng tạo. Xác nhận của thủ trưởng đơn vị Người viết Lương Thị Bích Trâm * TÀI LIỆU THAM KHẢO Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018), Chương trình giáo dục mầm non, NXB Giáo dục Việt Nam. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2020), Hướng dẫn tích hợp nội dung giáo dục bảo vệ môi trường trong chương trình giáo dục mầm non, NXB Giáo dục Việt Nam. Nguyễn Ánh Tuyết (2019), Giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ mầm non thông qua các hoạt động trải nghiệm, NXB Đại học Sư phạm. Trần Thị Minh Hòa (2021), Phương pháp tổ chức hoạt động giáo dục môi trường cho trẻ mầm non, Tạp chí Giáo dục. Lê Thị Thanh Hương (2020), Vai trò của giáo dục bảo vệ môi trường trong chương trình giáo dục mầm non, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Giáo dục. Nguyễn Hữu Hải (2022), Ứng dụng các phương pháp giảng dạy hiện đại vào giáo dục bảo vệ môi trường ở trường mầm non, NXB Giáo dục. UNICEF Việt Nam (2020), Hướng dẫn giáo dục phát triển bền vững cho trẻ em ở lứa tuổi mầm non, Báo cáo chính thức của UNICEF. Luật Bảo vệ Môi trường (2020), Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Tổ chức UNESCO (2019), Giáo dục môi trường và phát triển bền vững, Tài liệu dành cho giáo viên mầm non. Website của Bộ Tài nguyên và Môi trường Việt Nam: https://www.monre.gov.vn Các bài viết, chuyên đề về giáo dục bảo vệ môi trường đăng trên Tạp chí Giáo dục và Tạp chí Môi trường năm 2023-2024.